Tuần 50 - Ngày 17/07/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Tin tức chung
Sách mới của Hawking & Mlodinow : “The grand Design” (Cuộc đại thiết kế)
03/11/2010




 





Hawking & Mlodinow vừa công bố cuốn sách “The grand Design” (Cuộc đại thiết kế) trong đó các tác giả nêu lên nhiều quan điểm gây nên một làn sóng phản ứng gay gắt từ phía các nhà khoa học, triết học và thần học. Tuy nhiên số người tán thưởng, ca tụng, khen ngợi đến cuồng nhiệt cũng không phải là ít. Cuốn sách nhanh chóng trở thành một cuốn best-seller. Sau đây là những thông tin chung quanh cuốn sách-hiện tượng này.  

Lược sử thời gian
Hơn 20 năm trước Stephen Hawking đã viết cuốn best-seller  Lược sử thời gian [1]  (Hình 1) để giải thích vũ trụ từ đâu đến và sẽ đi đâu. Song cuốn sách này chưa trả lời những câu hỏi sau: Tại sao tồn tại vũ trụ-tại sao có điều gì đó thay vì không có điều gì cả (why is there something rather than nothing); Vì sao chúng ta tồn tại?; Tại sao các định luật lại như thế?; Vũ trụ có cần một đấng sáng tạo hay không?

        

Stephen Hawking,  nhà vật lý lý thuyết lỗi lạc, tác giả lý thuyết bức xạ lỗ đen (còn gọi là bức xạ Hawking) và Leonard Mlodinow, nhà vật lý lý thuyết, Viện Công nghệ California tác giả nhiều sách đã xuất bản.

Bản thân Einstein cũng mơ ước xây dựng một lý thuyết thống nhất (TOE-Theory of Everything, Lý thuyết của tất cả), một đại thiết kế của vũ trụ. Song trong thời của Einstein điều này không thực hiện được vì nhiều tương tác chưa được biết đến.

Cuốn Lược sử thời gian đã phác họa một số điều cơ bản. Theo Hawking hiện nay sự xuất hiện lý thuyết M và nhiều dữ liệu quan sát từ OBE,WMAP đã dẫn chúng ta đến gần hơn bao giờ hết một TOE.

  Hình 1. Lược sử thời gian

Hình 2.  The grand Design (Cuộc Đại thiết kế)

Lý thuyết M dẫn đến sự tồn tại của đa vũ trụ, đa vũ trụ đã tự tạo một cách tự phát từ “chân không” (nothing) và mỗi vũ trụ có những định luật riêng. Chúng ta xuất hiện trong một vũ trụ từ những thăng giáng nguyên thuỷ của chân không.

Trong cuốn Lược sử thời gian, Stephen Hawking viết: nếu chúng ta tìm ra một lý thuyết hoàn chỉnh đó sẽ là một thành tựu lớn của trí tuệ nhân loại – và như thế chúng ta sẽ biết được ý đồ của Chúa.

The grand design

Năm 2010 Stephen Hawking cùng với Leonard Mlodinow (Viện Công nghệ California) công bố cuốn sách The Grand Design (Cuộc đại thiết kế)[2] (Hình 2), nhằm trả lời những câu hỏi còn lại sau Lược sử thời gian, cuốn sách cũng nhanh chóng trở thành best-seller như cuốn Lược sử thời gian 20 năm trước đây.

Trong cuốn The Grand Design, hai tác giả trên đã đưa ra những quan điểm gây nhiều tranh cãi:

* Triết học đã chết vì không đều bước được với khoa học đặc biệt với vật lý học.

* Vũ trụ hình thành không cần đến Chúa. Quan điểm này của Hawking & Mlodinow có phần khác so với quan điểm phát biểu trong Lược sử thời gian. Nếu muốn có thể gọi các định luật vật lý là “Chúa” song không tồn tại một Chúa bằng xương thịt mà chúng ta có thể gặp và đặt các câu hỏi. Lý thuyết M lên ngôi ứng viên số một của một lý thuyết tối hậu.

Những cơ sở lý thuyết của cuốn The Grand Design

1/ Theo Hawking & Mlodinow một lý thuyết thống nhất là vô định. Hai tác giả đã đưa ra nguyên lý hiện thực-phụ thuộc mô hình (model-dependent realism) [3].

Các nhà vật lý lâu nay tưởng rằng họ đang xây dựng một lý thuyết cho tất cả nhưng cuối cùng kết quả lại dẫn đến nhiều lý thuyết.

Hiện nay tồn tại một ứng viên nặng ký là LTD (Lý thuyết dây) song trong LTD có  đến 5 cách mô tả, mỗi cách mô tả chỉ hoạt động cho một số tình huống hạn chế. Một mạng liên thông toán học (network of mathematical connections) đã nối liền 5 lý thuyết trên thành một lý thuyết gọi là lý thuyết M.

Trong [3], Stephen và Leonard Mlodinow đưa ra lý luận chúng tỏ rằng một lý thuyết tối hậu không dẫn đến một tập duy nhất các phương trình. Mỗi lý thuyết đều dựa trên một mô hình thực tại (model of reality) của mình, và không thể nói thực tại nào là thực hơn thực tại kia.

Cách đây vài năm hội đồng thành phố Monza, Bắc Italy đã ra một lệnh kỳ quặc là cấm giam giữ cá vàng trong những bể hình cầu  (Hình 3). Lý do: thật là độc ác nếu vì qua những lọ với hình dáng như thế,  cách nhìn thế giới của cá vàng sẽ bị méo mó. Câu chuyện cá vàng sẽ dẫn chúng ta đến một câu hỏi triết học: bằng cách nào chúng ta biết được thực tại mà chúng ta quan sát là thực?

Những gì cá vàng thấy được khác với những gì chúng ta thấy, song liệu thực tại của cá vàng có kém hơn thực tại của chúng ta hay không? Chúng ta suốt đời luôn quan sát thế giới qua những lăng kính làm méo mó thực tại.

Trong vật lý câu hỏi này không phải là một câu hỏi hàn lâm. Qua nhiều thập kỷ chúng ta cố gắng tìm một lý thuyết cho tất cả song cuối cùng lại đi đến một tập các lý thuyết liên thông với nhau, mỗi lý thuyết mô tả một thực tại riêng như trường hợp cá vàng nhìn thế giới qua bể chứa. Đa số chúng ta tin rằng có một thực tại khách quan mà khoa học chúng ta tạo nên phản ảnh thực tế đó. Khoa học cổ điển dựa trên niềm tin rằng thế giới khách quan tồn tại với những tính chất xác định và độc lập đối với người quan sát. Trong triết học điều đó gọi là hiện thực (realism).


Hình 3. Cá vàng trong bể hình cầu sẽ nhìn thế giới một cách bị méo mó.

Song trong những năm 1960 người ta đã nêu lên vấn đề: nhận thức thực tại phụ thuộc vào thức hệ (mind) của chúng ta. Quan điểm này mang các tên: phản hiện thực (antirealism), công cụ chủ nghĩa (instrumentalism) hoặc duy tâm (idealism). Trong khuôn khổ các học thuyết đó thể giới như chúng ta biết đều được xây dựng bởi thức hệ của chúng ta sau khi nặn hình các dữ liệu bên ngoài nhờ cấu trúc diễn đoán của bộ não. Quả thật chúng ta không thể nào tách rời người quan sát là chúng ta với nhận thức của chúng ta về thế giới bên ngoài. Chúng ta thu nhận được thế giới bên ngoài nhờ các hạt như electron, photon. Các hạt này lại tuân theo cơ học lượng tử chứ không điều khiển bởi vật lý cổ điển. Trong cơ học lượng tử hạt không có tọa độ và vận tốc xác định đến lúc có một quan sát viên thực hành phép đo. Theo vật lý cổ điển thì quá khứ là chuỗi các sự kiện xác định, theo lý thuyết lượng tử thì quá khứ cũng như tương lai đều không xác định mà là tồn tại dưới dạng một phổ các khả năng (spectrum of possibilities). Thậm chí toàn bộ vũ trụ cũng không có một lịch sử duy nhất. Như vậy lý thuyết lượng tử áp đặt một thực tại hoàn toàn khác thực tại của lý thuyết cổ điển, mặc dầu lý thuyết cổ điển dường như phù hợp với trực giác của chúng ta và giúp chúng ta xây nhà cửa, cầu cống.

Hawking & Mlodinow đưa ra nguyên lý hiện thực-phụ thuộc mô hình (model-dependent realism). Vậy bức tranh thế giới là một mô hình (với bản chất là toán học). Theo quan điểm này thì vô nghĩa khi đưa ra câu hỏi mô hình này có thực hay không mà chỉ có ý nghĩa khi đặt câu hỏi mô hình này có phù hợp với các quan sát thực tại hay không. Nếu hai mô hình đều phù hợp với quan sát thực tại thì không thể nói mô hình nào là thực hơn mô hình kia! Ta có thể dùng mô hình này hay mô hình kia tùy theo tình huống.

Vì ánh sáng bị khúc xạ khi đi từ không khí qua nước cho nên một vật mà chúng ta thấy có chuyển động thẳng thì đối với con cá vàng trong bể vật đó có một quỹ đạo cong. Cá vàng có thể tìm ra các định luật chuyển động và các định luật này phải phức tạp hơn các định luật của chúng ta.

Một ví dụ cụ thể hơn là học thuyết Ptolemy (học thuyết địa tâm) và học thuyết Copernicus (học thuyết nhật tâm). Đối chiếu với trường hợp cá vàng chúng ta có thể nói rằng có thể dùng học thuyết này hoặc học thuyết kia vì chúng ta có thể giải thích mọi quan sát trên bầu trời khi giả định Trái đất đứng yên hay Mặt trời đứng yên. Tuy nhiên ưu điểm của học thuyết Copernicus là các phương trình chuyển động trong học thuyết này là đơn giản hơn trong hệ quy chiếu trong đó Mặt trời đứng yên.

Lý thuyết M

Trong cuộc truy tìm một lý thuyết thống nhất chưa có một lý thuyết nào gây nhiều  tranh cãi và đem lại nhiều hy vọng như LTD (Lý thuyết dây). LTD dược đưa ra vào những năm 1970 nhằm thống nhất 4 loại tương tác, tích hợp lượng tử và hấp dẫn thành một. Trong LTD thực thể cơ bản là một dây vi mô một chiều, sự va động của dây tạo nên các hạt cơ bản (Hình 4).

Các nhà vật lý đã phát hiện một điểm yếu của LTD là nó chứa đến 5 lý thuyết. Đối với ai mong muốn xây dựng một lý thuyết thống nhất duy nhất thì điều này gây nên một tình trạng bối rối thực sự. Vào giữa những năm 1990 họ tìm thấy rằng 5 lý thuyết khác nhau này và cả lý thuyết gọi là siêu hấp dẫn nối liền liên thông với nhau bởi những phép đối ngẫu (duality), và đấy là một loại từ điển toán học chuyển các lý thuyết qua lại nhau. Mỗi lý thuyết chỉ mô tả đúng hiện tượng trong một phạm vi các điều kiện-ví dụ ở một vùng năng lượng nào đó.


Hình 4 . Bên trái thực thể cơ bản là một điểm 0- chiều chuyển động trong không thời gian, bên phải thực thể cơ bản là một dây 1- chiều như một cái vòng chuyển động trong không thời gian.

Các nhà LTD bây giờ hiểu rằng  5 lý thuyết riêng lẻ đó chỉ là những xấp xỉ (approximation) của một lý thuyết cơ bản hơn gọi là lý thuyết M (chữ M có nhiều cách hiểu: Mother, Master, Magic, Miracle, Mystery, Membrane,...) (Hình 5)  và như vậy một lý thuyết duy nhất mô tả thế giới là không phù hợp mà muốn mô tả thế giới chúng ta phải áp dụng nhiều lý thuyết khác nhau trong những tình huống khác nhau. Như vậy lý thuyết M không phải là một lý thuyết theo nghĩa thông thường mà là một mạng liên thông toán học các lý thuyết. Điều này tương tự như việc sử dụng một bản đồ. Muốn biểu diễn toàn bộ Trái đất trên một mặt phẳng chúng ta cần một tập bản đồ, mỗi bản đồ sẽ bao trùm một vùng hữu hạn. Tương tự như vậy các lý thuyết trong gia đình của lý thuyết M nhìn ngoài là những lý thuyết khác nhau song đều là các phiên bản của một lý thuyết mẹ, ở chỗ giao thoa chúng mô tả cùng một hiện tượng song không một lý thuyết nào hoạt động chính xác trong mọi tình huống.


Hình 5 . Năm loại LTD chỉ là năm biểu diễn của một lý thuyết lớn là lý thuyết M

Mỗi khi chúng ta phát triển một mô hình nào đó thì chúng ta thấy mô hình đó có kết quả và gán cho mô hình đó là thực tại. Nhưng lý thuyết M giống như trong ví dụ cá vàng cho thấy rằng một tình huống có thể mô hình hóa theo nhiều cách khác nhau tùy theo các cách nhận thức khác nhau.

Mỗi lý thuyết có phiên bản thực tại của riêng minh, song theo quan điểm thực tại –phụ thuộc mô hình thì sự đa dạng thực tại đó là chấp nhận được và không thực tại nào là thực hơn thực tại kia! Đây không phải là sự mong đợi truyền thống của các nhà vật lý về một lý thuyết của thiên nhiên và cũng không phải ý tưởng thường nhật của chúng ta đối với thực tại. Song vũ trụ là thế.

Lý thuyết M có lời giải cho phép sự tồn tại của 10500 vũ trụ khác nhau, do các không gian nội tại (vốn là những đa tạp Calabi-Yau, Hình 6) có thể compắc hóa theo nhiều cách, và mỗi vũ trụ có những định luật riêng của mình . Theo lý thuyết M đa vũ trụ được tạo thành từ “chân không” (nothing). Hawking &Mlodinow cho rằng vì tồn tại một định luật như định luật hấp dẫn thì vũ trụ có thể tự tạo ra từ điều không có gì cả (nothing). Vậy không cần đến Chúa. Sự tạo tự phát là lý do vì sao có một điều gì đó thay vì  không có gì cả. Khi Hawking & Mlodinow nói đến “chân không” họ hàm ý đó là chân không trong lý thuyết trường.

Hawking & Mlodinow cho rằng lý thuyết M là ứng viên của lý thuyết thống nhất tối hậu mà Einstein hằng mơ ước.

Chúng ta nằm trong một vũ trụ của đa vũ trụ. Các định luật tự nhiên cần thiết cho sự sống đã xuất hiện một cách ngẫu nhiên (nguyên lý vị nhân-anthropic principle).

Các phản biện

A/ Những  ý kiến biện minh cho cuốn sách

Để tóm lược ý kiến của những người ủng hộ cuốn sách The grand Design còn gì hơn là trình bày ở đây suy nghĩ của chính Leonard Mlodinow (sùng đạo Do thái), đồng tác giả của cuốn sách. Ông  cho rằng các độc giả quá bị kích động bởi những bài viết trên các báo (như London Times). Thực tế Hawking và ông chỉ muốn trình bày một ý đồ thân thiện xuất phát từ khoa học để nói rằng vũ trụ có thể hình thành một cách tự phát mà không cầu cứu đến Chúa.

Sean Carroll, một đồng nghiệp thân thiết của Mlodinow đã viết trên Wall Street Journal: cuốn sách này không phải là một dự án nghiên cứu mà là một sự biểu lộ niềm tin mãnh liệt rằng khoa học là vũ khí tốt nhất để giải thích nguồn gốc của vũ trụ. Cho nên cuốn sách thể hiện một ý tưởng đáng tôn trọng hơn là đáng công kích (tuy nhiên Sean Caroll cũng  nói thêm rằng Hawking thích những điều dễ gây ấn tượng, những điều này làm cho cuốn sách trở thành best-seller của  Amazone chỉ sau vài ngày tung ra thị trường ngày 9/tháng 9/2010).

Sean Carroll cho rằng nhiều nhà vật lý và vũ trụ học đều là những người vô thần giáo, song không ít người tin điều ngược lại nghĩa là tin vào Chúa, con người vốn là sinh vật phức tạp.

B/ Những ý kiến phản bác lại cuốn sách

Cuốn sách The Grand Design của Hawking & Mlodinow đã gây nên nhiều ý kiến phản bác gay gắt từ phía các nhà khoa học, triết học và thần học. Sau đây là những thông tin tóm tắt về những ý kiến đó.

1/ Cơ sở lý thuyết của cuốn sách là lý thuyết M. Lý thuyết M theo Hawking & Mlodinow là một mạng liên thông toán học nối liền nhiều phiên bản của lý thuyết dây qua các phép đối ngẫu. Song lý thuyết M đang trong giai đoạn phát triển và đang chờ đợi một cuộc cách mạng thứ ba cho nên lý thuyết M không thể là ứng viên cho một lý thuyết tối hậu được.

Lee Smolin, nhà vật lý Viện Perimeter, Canada đã công bố cuốn sách “The trouble with Physics – Điều không ổn với Vật lý” nêu lên những điểm yếu của LTD, một lý thuyết chưa được kiểm nghiệm bởi bất cứ một thực tiễn khách quan nào[4]. Lee Smolin cho rằng 30 năm xây dựng LTD chỉ dẫn đến gần như một số không! Đến thời điểm này LTD không đưa ra được bất kỳ một tiên đoán nào có thể kiểm nghiệm được trong thực nghiệm hiện nay và thậm chí trong một tương lai đến. Trước năm 1994 (thời kỳ trước đó được gọi là cuộc cách mạng thứ nhất của LTD) người ta đã đưa siêu đối xứng (xem chú thích [5]) vào LTD (do đó LTD còn được gọi là Lý thuyết Siêu dây-LTSD) và tìm ra được 5 loại LTD, khác nhau chủ yếu vì các nhóm đối xứng toán học: loại I, loại II A, loại II B, loại hỗn hợp HO và loại hỗn hợp HE (xem chú thích [6]).

Để có sự liên kết về mặt toán học, số chiều không thời gian trong LTD phải lên đến 10. Các kiểu compắc hóa dẫn đến 10500 phương án, số phương án này còn lớn hơn cả số nguyên tử trong toàn vũ trụ! Điều này dẫn đến một phong cảnh [7] (danh từ của Leonard Susskin) có đồi núi với 10500 thung lũng ứng với chân không.

Vậy khó lòng tìm được một thí nghiệm mà kết quả lại không giải thích được bởi một trong các phương án đó, như thế thì không  phủ nhận được LTD. Và ngược lại cũng vì vậy mà LTD không nói lên được điều gì, như thế cũng khó lòng chấp nhận nó.

Năm 1995 (bắt đầu thời kỳ được gọi là cuộc cách mạng thứ hai của LTD) Edward Witten, Viện nghiên cứu các vấn đề hiện đại Princeton, chứng minh rằng 5 loại LTD thực ra chỉ là năm biểu diễn của một lý thuyết M trong 11 chiều.


Hình 6. Sáu chiều dư (extra dimension) trong LTD compắc hóa thành những đa tạp Calabi-Yau, mỗi cách compắc hóa dẫn đến một vũ trụ với hạt và trường khác nhau.

Lý thuyết M không phải là lý thuyết tối hậu. Dựa trên một lý thuyết như vậy để đi đến một đại thiết kế của vũ trụ quả là một điều không hợp lý nếu không nói là phi lý.

Nếu muốn mở một cuộc đối thoại giữa khoa học và tôn giáo thì Hawking & Mlodinow đã rơi vào siêu hình khi chọn lý thuyết M làm vũ khí.

2/ Như chúng ta biết trong vật lý có hai giả thuyết:

Giả thuyết hiện thực (realism): hạt có một tính chất khách quan trước khi ta thực hiện phép đo tính chất đó,

Giả thuyết định xứ  (locality): phép đo trên hạt thứ nhất không ảnh hưởng đến kết quả phép đo trên hạt thứ hai, mặc dầu chúng cách xa nhau.

Hiện tượng ảnh hưởng của phép đo thực hiện trên một hạt này đối với hạt cách xa là một  hiện tượng “phi định xứ” (non-locality).

Bất đẳng thức Bell nói rằng: Không có một lý thuyết định xứ với biến số ẩn  (local hidden variables theory) nào có thể cung cấp được các tiên đoán (predictions) của Cơ học lượng tử.

Nhà vật lý giải Nobel 2003 Anthony Leggett đã tìm ra một hệ các bất đẳng thức (tương tự như bất đẳng thức Bell) đối với các phép đo các mối liên quan của hai hạt photon nói trên cho những lý thuyết không định xứ song vẫn dựa trên hiện thực luận.

Thí nghiệm thực hiện năm 2007 của Anton Zeilinger (và nhiều người khác)[8] lại loại trừ một lớp lý thuyết không định xứ song theo hiện thực luận vì vi phạm hệ bất đẳng thức  Anthony Leggett. Vậy hy sinh định xứ luận không đủ cứu vãn hiện thực luận.

Nói cách khác các thí nghiệm đều dẫn đến kết quả phủ nhận hiện thực luận lẫn định xứ luận. Cơ học lý thuyết không phù hợp với định xứ -hiện thực.

Không định xứ là phát hiện sâu sắc của vật lý hiện đại. Đâu là mối liên quan giữa không định xứ với lý thuyết M? Các tác giả Hawking & Mlodinow đã lặng im về vấn đề này và đây là một khuyết điểm nghiêm trọng.

3/ Tôn giáo và khoa học đều có chung một mục đích: tìm hiểu vũ trụ. Khoa học tìm hiểu bằng duy lý, tôn giáo bằng tâm linh. Newton nói rằng: khoa học cho chúng ta hiểu cách hành xử của vũ trụ nhưng không trả lời được câu hỏi về sự sáng tạo nên vũ tru. Hấp dẫn giải thích được chuyển động của các hành tinh song không trả lời được câu hỏi ai đã làm cho các hành tinh chuyển động “Gravity explains the motions of the planets, but it cannot explain who set the planets in motion” .

4/ Các tác giả Hawking & Mlodinow đã đi ngược lại với Godel. Godel khẳng định không có lý thuyết nào của vũ trụ là hoàn chỉnh, trong khi đó Hawking & Mlodinow cho rằng lý thuyết M là ứng viên số một của một lý thuyết tối hậu của trí tuệ con người. 

5/ Hawking & Mlodinow đã sử dụng một lý thuyết chưa hề có một kiểm chứng thực nghiệm là lý thuyết M, như vậy thực tế hai tác giả tuy chống triết học, tuyên bố triết học đã chết nhưng thực tế lại đang triết lý (philosophize) về một cuộc đại thiết kế vũ trụ. Như vậy triết học không chết mà đang là một phương tiện tư duy (mà chính Hawking & Mlodinow đang sử dụng) cần thiết để am hiểu vũ trụ.

Đọc suốt cuốn sách người ta có cảm tưởng như Hawking & Mlodinow lại muốn chứng minh ngược lại điều họ muốn chứng minh: tồn tại một nhà đại thiết kế vũ trụ.

7/ Hawking & Mlodinow muốn xây dựng một lý thuyết của tất cả (everything) song không định nghĩa tất cả là những điều gì?

8/ Khoa học và triết học là hai môn học bổ sung cho nhau vì khoa học không bao giờ giải quyết tận cùng những lỗ hổng bất khả tri của nhân loại (Gregory Chaitin) .

9/ Khái niệm “chân không” (nothing) mà Hawking và Mlodinow sử dụng theo các nhà thần học còn huyền bí hơn cả khái niệm Chúa trong những tư tưởng tín ngưỡng nhất. Tổng Giám mục Lee Rayfield nói: Khoa học không bao giờ chứng minh được sự tồn tại cũng như sự không tồn tại của Chúa, và để giải thích vũ trụ sự tồn tại của Chúa tạo nhiều ưu thế hơn.

10/ Về nguyên lý thực tại- phụ thuộc mô hình các tác giả đã bỏ qua một điểm thiết yếu. Mô hình được tạo ra bởi thức hệ (mind) của người quan sát, song thức hệ cũng là một thực tại như người quan sát. Theo Roger Penrose thức hệ cũng phải được tính đến như một tính chất của người quan sát và thức hệ thể hiện ở mức lượng tử với nguyên tử và quark. Hawking & Mlodinow đã bỏ qua điều này. Cho nên nguyên lý thực tại- phụ thuộc mô hình vẫn còn chứa nhiều điều chưa rõ.

Kết luận

Cuốn sách The Grand Design của Hawking & Mlodinow là một best-seller, điều đó nói rằng cuốn sách có chứa những hạt nhân duy lý cho nên được nhiều người tán thưởng. Cuốn sách được viết bởi một nhà vật lý lý thuyết hàng đầu đương đại và một đồng tác giả cũng là nhà vật lý lý thuyết, tác giả của nhiều sách đã xuất bản.

Tuy nhiên theo ý kiến nhiều nhà khoa học, triết học và thần học, cuốn sách chứa nhiều mâu thuẫn và điều cơ bản nhất là dựa trên cơ sở lý thuyết M [9] là một lý thuyết chưa được kiểm nghiệm bao giờ cho nên cuốn sách không đạt được mục đích giải thích cuộc đại thiết kế của vũ trụ trên cơ sở khoa học như ý đồ của các tác giả. Vì thế các tác giả đã phản đối triết học trong khi thực tế đang “triết lý” trong suốt cuốn sách và cho rằng Chúa không cần thiết cho cuộc đại thiết kế vũ trụ nhưng các lý lẽ cơ bản họ sử dụng còn siêu hình hơn cả khái niệm về Chúa. 

Có nhiều cơ sở để khẳng định  rằng một lý thuyết thống nhất (TOE) không bao giờ tồn tại do đó  cuộc đối thoại giữa khoa học, triết học và thần học không bao giờ chấm dứt [10].
Cao Chi (theo tiasang.com.vn)
-------------------
Tài liệu tham khảo
[1] Stephen Hawking,  A brief history of time, Lược sử thời gian , bản dịch của Cao Chi, Phạm Văn Thiều tái bản lần thứ 10, NXB Trẻ, 2006.
[2]Stephen Hawking & Leonard Mlodinow, The (elusive) theory of Everything, Scientific American. tháng 10/2010
[3] Stephen Hawking, Leonard Mlodinow, The Grand Design, Bantam,2010, Kindle Edition
[4] Hélène Le Meur, Costas Bachas, Franck Daninos, Peter Galison, La Recherche, No 411, tháng 9/2007
[5] Siêu đối xứng= đối xứng nối liền các hạt có spin nguyên (boson) với những hạt có spin bán nguyên (fermion).
[6] HO, HE , chữ H (heterotic) có nghĩa là lai, hỗn hợp, các chữ O và E  là ký hiệu của những nhóm trong  toán học.
[7] Raphael Bousso, Joseph Polchinski, The string theory landscape, Scientific American, tháng 9/2004
[8]  Simon Groblacher, Tomasz Paterek, Rainer Kaltenbaek, Caslav Brukner, Marek Zukowski, Markus Aspelmeyer & Anton Zeilinger, Nature 446, 871-875 (19 April 2007)
[9] Có tác giả còn cho rằng Hawking hy vọng lý thuyết M không mâu thuẫn với lý thuyết  bức xạ của Hawking mà Hawking lại hy vọng vào bức xạ Hawking để được giải Nobel cho nên Hawking quá đề cao lý thuyết M.
[10] Cao Chi, Tồn tại chăng một lý thuyết của tất cả, Kỷ yếu Max Planck, NXB Tri thức, 2009.
 
Cập nhật ( 25/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:
“ Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó.”
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com