Nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, ông Trần Đức Nguyên chia sẻ góc nhìn về chất lượng tăng trưởng và những giải pháp chống lạm phát của Chính phủ.
Phát triển theo chiều sâu mới nâng được chất lượng tăng trưởng kinh tế
![](http://www.tuanvietnam.net/Library/Images/69/2008/04/Mr-Nguyen2.jpg) |
Chuyên gia kinh tế Trần Đức Nguyên |
Chất lượng phát triển đồng nghĩa với phát triển bền vững, cần nhiều yếu tố. Theo Liên Hợp Quốc, các yếu tố đó gắn với ba trụ cột: kinh tế, xã hội, môi trường. Ở Việt Nam, Nghị quyết Đại hội 10 đưa thêm mấy yếu tố nữa: yếu tố văn hoá, yếu tố phát triển con người, và yếu tố dân chủ.
Nghiên cứu riêng về chất lượng tăng trưởng kinh tế thì phải nhìn trên mấy mặt gắn bó với nhau. Một là, năng suất, chất lượng, hiệu quả dựa vào các yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu. Thế giới thường phân tích 3 nhân tố tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế: vốn, số lao động (là hai yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng), và năng suất tổng hợp (TFP) là yếu tố phản ảnh sự tăng trưởng theo chiều sâu.
Thực tế, TFP của ta rất thấp. Hiện nay, VN vẫn còn khả năng khai thác các yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng, nhưng đã tới lúc phải phát triển theo chiều sâu là chính. Làm được như vậy, chúng ta mới nâng đượcsức cạnh tranh của nền kinh tế.
Mặt thứ hai là chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bên cạnh việc tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ, cần giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn; gắn với chuyển dịch cơ cấu ngành, cần tạo chuyển biến trong cơ cấu về lao động, cơ cấu công nghệ theo hướng tăng tỷ trọng lao động có tay nghề, nâng dần tỉ lệ công nghệ cao. Cơ cấu xuất khẩu cần chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến sâu và công nghệ cao .
Mặt thứ ba là mặt về đời sống, thu nhập. Đó vừa là yếu tố kinh tế, vừa là yếu tố xã hội. Trong buổi đầu CNH, các nước không tránh khỏi việc khoảng cách thu nhập giãn ra, song cần tránh sự giãn cách quá nhanh. Điều quan trọng là mọi tầng lớp nhân dân được cải thiện đời sống, số người nghèo giảm đi, tăng tầng lớp trung lưu và số người giàu. Khuyến khích làm giàu chính đáng, đúng pháp luật, ngăn chặn làm giàu bất chính, đặc biệt là làm giàu từ tham nhũng.
![](http://www.tuanvietnam.net/Library/Images/69/2008/04/giau-ngheo.jpg) |
Trong buổi đầu CNH, các nước không tránh khỏi việc khoảng cách thu nhập giãn ra, song cần tránh sự giãn cách quá nhanh. Ảnh minh hoạ: nicholsoncartoons.com.au
|
Mặt thứ tư là khả năng chủ động ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát và duy trì được một số cân đối lớn: cân đối ngân sách, cân đối xuất – nhập, cân đối thanh toán quốc tế, ổn định giá trị đồng tiền, chống lạm phát…
Vói cách nhìn như vậy, có thể thấy ngay chỗ yếu của nền kinh tế nước ta là tăng trưởng kém chất lượng và đó là nguyên nhân cơ bản dẫn tới những biến động về kinh tế vĩ mô và sự xuống cấp về chất lượng cuộc sống trên nhiều mặt mà chúng ta đang phải khắc phục.
Vênh giữa nhận thức và hành động thực tế
Ngay từ cuối thập kỉ trước, văn kiện Đại hội Đảng và báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội đã nhận biết và phê phán sự yếu kém về chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta Nhưng nhận thức không đi đôi với chỉ đạo và hành động thực tế để khắc phục. Chính phủ chưa chuyển được tư duy của bộ máy lãnh đạo và quản lý theo hướng coi trọng chất lượng.
Trước hết, nhìn vào các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong các kế hoạch 5 năm và hàng năm, có thể thấy trong 25 chỉ tiêu, không có chỉ tiêu phấn đấu về chất lượng tăng trưởng kinh tế
Bên cạnh đó, lại có xu hướng quá nhấn mạnh đến tốc độ tăng GDP, trở thành chỉ tiêu phấn đấu cho từng tỉnh. Có tỉnh đòi tính cho từng huyện. Thậm chí, có vị lãnh đạo tỉnh nói đánh giá chất lượng cán bộ theo việc thực hiện chỉ tiêu GDP.
Năm 2007, Trung Quốc cộng 31 tỉnh GDP cao hơn GDP toàn quốc về tốc độ là 1%, vậy mà báo chí đã gọi đó là “nói dối không chớp mắt”.
|
Thống kê muốn con số đúng thực tế, nhưng không loại trừ sức ép của những người muốn có thành tích. Khi ấy, với những nhược điểm trong việc tính GDP của từng tỉnh, rất dễ có chuyện xê dịch. Cho nên, theo số liệu của Tổng cục thống kê, từ 2001 đến nay, cộng GDP của 64 tỉnh có tốc độ tăng gần gấp rưỡi tốc độ tăng GDP tính chung toàn quốc.
Nếu hạ được hệ số ICOR xuống 4,5, GDP Việt Nam đã là 10%
GDP của nước ta, từ năm 2001 đến 2007, hơn 60% tốc độ tăng trưởng là dựa vào tăng vốn đầu tư, trong đó trên dưới một nửa là đầu tư của khu vực nhà nước .Tư nhân cũng có đầu tư thất bại nhưng “không ai ăn cắp của bản thân mình”. Đầu tư nước ngoài đều chặt chẽ về tính hiệu quả. Còn đầu tư của Nhà nước chưa thoát khỏi tư duy “tiền chùa”.
Vì vậy một phần đầu tư công tính vào GDP nhưng không tạo ra giá trị thực, không đem lại lợi ích cho nền kinh tế, như: công trình làm xong, được tính vào GDP song không sử dụng hoặc sử dụng ở mức thấp, không tương xứng với mức đầu tư; công trình xây dựng ẩu, phải sửa chữa, thậm chí làm đi làm lại, công trình kéo dài với khối lượng công việc làm thêm, chi phí thêm được tính vào GDP nhưng không làm tăng giá trị hữu ích; và có một phần không nhỏ vốn đầu tư bị đục khoét do tham nhũng nhưng vẫn tính vào GDP theo chứng từ thanh toán...
![](http://www.tuanvietnam.net/Library/Images/69/2008/04/pandodyssey.jpg) |
Phần ảo do vấn đề môi trường chiếm tỉ trọng không nhỏ trong GDP. Ảnh: pandodyssye.com
|
Phần không hữu ích này được gọi là phần “ảo” trong GDP còn góp phần đẩy lạm phát lên cao vì tiền đầu tư nhiều nhưng có một phần không nhỏ không làm tăng sản xuất và dịch vụ trong nền kinh tế.
Bên cạnh đó, phải kể đến các hoạt động đầu tư, kinh doanh đóng góp giá trị gia tăng vào GDP, nhưng lại đồng thời gây ra hệ quả xấu, đặc biệt là phá hoại và làm ô nhiễm môi trường, buộc xã hội phải chi phí tốn kém để khắc phục.
Báo Thanh niên ngày 23/11/2007 đưa tin: báo China Daily, Trung Quốc ngày 20/11/2007 cho biết Ngân hàng thế giới (WB) vừa công bố một nghiên cứu gây choáng váng: ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm không khí làm TQ thiệt hại 5,8% GDP, tương đương 100 tỷ USD, bằng 1/2 tốc độ tăng GDP năm 2006 là 11,5%. Đấy là chưa kể tác hại nặng nề do ô nhiểm môi trường gây ra cho sức khoẻ và tuổi thọ con người là những thứ quý giá không thể đo đếm bằng tiền được.
Ở nước ta, nếu tính kỹ mức độ thiệt hại do ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, nạn phá rừng đầu nguồn, khai thác tài nguyên bừa bãi làm trầm trọng thêm lũ, lụt, sạt lở đất, gây dịch bệnh cho người và gia súc, gia cầm... chắc là con số không nhỏ so với GDP làm ra.
Nếu đầu tư công của ta loại bỏ được những phần ảo, hệ số ICOR sẽ khác. Hệ số này của nước ta trong các năm 2001-2007 là 5,2 nghĩa là cần 5,2 đồng vốn đầu tư để tăng được một đồng GDP, cao gấp ruỡi đến gấp hai nhiều nước xung quanh trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Các nước làm giỏi, ICOR của họ thời kì đầu CNH trên dưới 3.
Năm 2007, vốn đầu tư thực hiện so với GDP là 45,6%, nếu hạ được hệ số ICOR xuống, bước đầu ở mức 4,5 thì tốc độ tăng GDP của Việt Nam đã là 10%. Con số đó cho thấy tầm quan trọng của việc chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả đầu tư công .
Trọng điểm đầu tư công và sự tham gia của dân
Đầu tư công, bao gồm cả đầu tư từ ngân sách, tín dụng nhà nước và đầu tư của DNNN là một trọng điểm để kiềm chế lạm phát và nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, được nhấn mạnh trong nhóm giải pháp của Chính phủ đối với tình hình kinh tế trước mắt.
Bên cạnh việc xử lý ngay cái gì hoãn, cắt giảm, cái gì tập trung đầu tư thêm, điều quan trọng là phải hoàn thiện cơ chế sử dụng đầu tư công như thế nào để tăng hiệu quả, giảm bớt chuyện nhức nhối lâu nay. Một loạt chợ, làm lên không dùng, nhà máy đường xây xong không chạy… ai chịu trách nhiệm? Những công trình kéo rê, làm hỏng, làm lại như cầu Văn Thánh, trách nhiệm của ai? Không thể đánh bùn sang ao mãi được.
Hiện nay, hầu hết đầu tư từ ngân sách dành cho kết cấu hạ tầng. Định hướng đó là đúng, nhưng ngay kết cấu hạ tầng cũng cần cân nhắc cái gì làm trước, cái gì làm sau để có hiệu quả Đặc điểm của đầu tư kết cấu hạ tầng trước sau cũng đem lại giá trị hữu ích. Nhưng làm con đường mà ít người đi trong khi nhiều cái cần hơn không được đầu tư cũng cần xem xét, như đường HCM tốn kém nhưng rất ít phương tiện lưu thông là một thực tế cần rút kinh nghiệm .
Theo tôi có nhiều cái về kết cấu hạ tầng rất gắn với dân. Bên cạnh khâu thẩm định, giám sát của lực lượng chuyên môn kỹ thuật, cần có cơ chế để dân (và các cơ quan dân cử) được tham gia quyết định đầu tư và giám sát đầu tư .
Ví dụ, trong một lần đầu tư nâng cấp công viên Thống Nhất ở Hà Nội, con đường trong công viên dành cho người đi bộ, nhưng, đã đào sâu, đổ đá hộc, đá dăm… như cho xe tải nặng đi trong khi những thứ cần cho người dân giải trí, tập thể dục thì rất thiếu. Nếu việc đầu tư tu bổ, cải tạo công viên không chỉ do những người ngồi ở cơ quan chức năng quyết mà để HĐND (thành phố hoặc quận) có ý kiến khi bàn thảo, xây dựng thì chắc chắn sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của dân.
Thực tế những địa phương làm đường nông thôn nhanh, tốt chính là nhờ có sự bàn bạc và giám sát của dân. .
Nếu không dựa vào trí tuệ, tai mắt của dân, khó mà ngăn chặn được tình trạng đầu tư công kém hiệu quả, lãng phí, thất thoát lớn. Các dự án đầu tư công dùng tiền của dân cần công khai minh bạch với dân. Làm công trình gì, nhằm mục đích gì, thời hạn xây dựng bao lâu… cần cho dân biết.
Bên cạnh sự giám sát của các tổ chức chuyên môn, kỹ thuật, nên có quy chế và tạo điều kiện cho Hội đồng nhân dân huy động sự tham gia giám sát của dân. Chỉ cần dành một tỷ lệ nhỏ trong vốn đầu tư của Nhà nước làm kinh phí cho công việc này, sẽ có thể hạn chế, ngăn chặn đáng kể tình trạng lãng phí, tham nhũng trong đầu tư công.
Như công trình ngã tư Đại Cồ Việt- đường Giải phóng khởi công đã lâu, gây ách tắc giao thông, nhưng thi công rất chậm, không biết bao giờ mới xong. Nếu dân biết rõ mục tiêu, khối lượng công việc và thời gian thi công thì quận Đống Đa không thiếu gì người có trình độ chuyên môn mà Hội đồng nhân dân có thể huy động tham gia giám sát, thúc đẩy việc thi công công trình .
Qua đợt tiến hành công tác rà soát, điều chỉnh đầu tư lần này, phải tìm khe hở trong cơ chế đầu tư công để có biện pháp quyết liệt khắc phục cho được tình trạng lãng phí, thất thoát, không hiệu quả...
Trong công việc này, bên cạnh việc đề cao tính tự giác của các ngành, các địa phương, Chính phủ cần chú trọng sử dụng đội ngũ chuyên gia có trình độ và phẩm chất để tiến hành điều tra, nghiên cứu và đề xuất kiến nghị có căn c ứ thực tế. Cùng với các chuyên gia trong bộ máy chức năng, nên huy động cả các chuyên gia độc lập ở các viện, trường và các chuyên gia không ở trong bộ máy nhà nước để nghe được tiếng nói khách quan, thẳng thắn.
Chúng ta xác định cải cách mạnh mẽ và thực chất lĩnh vực đầu tư công là một yêu cầu cơ bản, lâu dài để nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế chứ không coi là công việc nhất thời chỉ nhằm kiềm chế lạm phát.
- Trần Đức Nguyên (tuanvietnam.net)
|