Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng, những lập luận đòi đa dạng hoá ngành nghề của các Tập đoàn chỉ là bao biện. Các tập đoàn đã độc quyền, hưởng đặc quyền lại đòi quyền tự do kinh doanh như khu vực khác là không sòng phẳng.
![](http://www.tuanvietnam.net/Library/Images/69/2008/04/PCL1.jpg) |
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan. Ảnh: PL
|
- Tại Hội nghị đổi mới DNNN, trong khi Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng khẳng định "nuôi quân ba năm, dùng một giờ, trong bối cảnh lạm phát cao, DNNN cần chung vai với Nhà nước", đại diện của các tập đoàn nhà nước đều cho rằng, Nhà nước cần tạo cơ chế để họ đa dạng hoá kinh doanh nhằm bù đắp cho việc thực hiện trách nhiệm đối với xã hội. Bà nhìn nhận như thế nào về việc này?
Chúng ta không phủ nhận việc có một số cung cấp của đơn vị này phải gánh một phần chính sách, như điện phải đi vào vùng sâu vùng xa, những nơi tính lợi ích kinh tế thuần tuý họ sẽ không đầu tư vào. Hoặc viễn thông cũng vậy, những nơi cần quan tâm hơn, để người dân, nhất là người nghèo có thể tiếp cận thông tin, gắn vào sự phát triển chung của đất nước... Hiện nhiều DNNN cũng đang gánh phần đó.
Tuy nhiên, đúng như Phó Thủ tướng đã nói: "Nuôi quân 3 năm dùng 1 giờ". Cả nước đang khó khăn, trong đó có phần trách nhiệm của DNNN gây ra. DNNN không thể khước từ khó khăn vào lúc này.
DNNN vẫn tự hào đóng góp nhiều nhất vào ngân sách, nhưng liệu đóng góp đó có tương xứng với tỷ lệ tài nguyên quốc gia họ đang được quản lý và sử dụng. Hiện nay DNNN đang dùng nhiều, góp ít. Đã đến lúc họ phải chia sẻ chung trong khó khăn, không thể tiếp tục tình trạng không chịu chìa vai gánh vác.
"Nhà nước chỉ là người đưa ra định hướng, chiến lược, giúp DN chọn đúng đường mà đi, không nên đi vào kinh doanh từng ngành cụ thể, nhất là khi đó là ngành tư nhân làm tốt"
|
Về phía Nhà nước, đây cũng là dịp để chấn chỉnh, đưa ra quy chế hoạt động cho DNNN và các tập đoàn kinh tế (TĐKT). Chúng ta đang có thời cơ tốt để chấn chỉnh, kiên quyết làm những việc đã định làm từ lâu những chưa làm được để có được nền kinh tế phát triển bền vững.
Ngay từ Nghị quyết Đại hội IX, Đại hội X của Đảng đều khẳng định DNNN phải nắm giữ những lĩnh vực then chốt, chỉ rõ hơn 10 lĩnh vực cụ thể. Hà cớ gì để các DNNN, nhất là các tập đoàn kinh tế mở rộng kinh doanh trên mọi lĩnh vực.
Chúng ta cũng cần xử lý sớm tình trạng đầu tư chéo lẫn nhau giữa các TĐKT. Việc này đang tạo ra các khoảng mờ cho quản lý của bản thân tập đoàn và giám sát của Nhà nước.
- Nguyên nhân của việc không nên đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh là gì, thưa bà?
Việc mở rộng ra nhiều lĩnh vực gây dàn trải nguồn lực vốn chật hẹp thuộc sở hữu toàn dân, đã giao nhà nước điều hành, phân bổ sử dụng cho hiệu quả. Tiền ngân sách cũng chính là tiền thuế của dân. Tín dụng ngân hàng cũng chính là huy động từ sức dân mà có.
Số vốn đó của VN không nhiều. Nhà nước đã tin cậy giao cho các tập đoàn, tổng công ty kinh doanh lĩnh vực then chốt. Trách nhiệm của DN, tập đoàn là tập trung để phát triển ngành đó, nâng ngành đó lên đáp ứng yêu cầu. Dù giao cho DN sử dụng vốn, nhưng nhà nước có trách nhiệm quản lý ở mức độ nhất định. Đầu tư dàn trải quá nhiều, nhà nước cũng không thể quản lý nổi.
![](http://www.tuanvietnam.net/Library/Images/69/2008/04/invest.jpg) |
Trình độ quản lý của DNNN là một vấn đề lớn để đảm bảo hiệu quả đầu tư.
|
Thống kê ban đầu cho thấy, các DN đã huy động vốn gần hơn 20 lần số vốn tự có của mình. Số vốn này quá lớn, nếu sử dụng không hiệu quả, mỗi mất mát sẽ lớn vô cùng với xã hội. Ngay 30% vốn Nhà nước dự kiến cho phép DNNN đầu tư cho lĩnh vực khác, ngoài lĩnh vực chính cũng lớn hơn nhiều số vốn, tài sản của rất nhiều DN khác. 30% đó cũng không được quyền lãng phí, thất thoát, chưa tính tới 70% còn lại.
Hơn nữa, bản thân tập đoàn khi lĩnh vực cốt lõi của mình cần tăng cường phát triển mà lại dàn trải, cũng khó quản lí để vận hành tốt. Trong khi đó, bất cứ tập đoàn kinh tế nào của Việt Nam cũng không thể so với bên ngoài về trình độ quản lý. Đủ giỏi để quản lý lĩnh vực của mình đã là đòi hỏi lớn với các DNNN. Vươn ra ngoài, thách thức càng lớn hơn.
Nói đa dạng ngành vì thiếu vốn là bao biện
- Lãnh đạo các tập đoàn lí giải rằng họ cần "lấy ngắn nuôi dài", ngành chính đã làm trong lĩnh vực mang tính công ích, nên cần mở rộng thêm những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao để thu hồi vốn nhanh, phục vụ tái đầu tư?
Đó chỉ là sự bao biện. Các đơn vị DNNN đã nắm ngành đó được đầu tư lâu nay, được ưu tiên cao, hưởng mọi ưu đãi về đất đai, tín dụng, nguồn lực đó. Anh không tập trung nổi để đẩy ngành mình lên, giờ nhân danh đầu tư ngành khác để đẩy ngành mình lên là không được.
Các DN khu vực tư nhân đâu dễ huy động nguồn lực như các tập đoàn kinh tế nhà nước. Nếu các tập đoàn nói không đủ nguồn lực nên đi tìm kiếm ở các lĩnh vực khác là không hợp lý.
Bản thân các DN này chưa huy động hết các kênh dành cho mình đã đi tìm kênh khác. Cổ phần hoá, phát hành trái phiếu, tham gia TTCK là kênh huy động vốn tốt, sao các DN không sử dụng? Nếu làm vậy, sẽ tạo niềm tin trong xã hội, người ta sẵn sàng đầu tư. Các DN đầu tư dàn trải, khó kiểm soát như vậy, liệu ai muốn bỏ vốn cho họ? Nhà nước trong nhiều trường hợp đã từng đứng ra bảo lãnh để họ vay tín dụng đầu tư.
Một hai năm nay, BĐS, chứng khoán nóng lên, các DN này thấy lợi lao vào, lấy cớ để thu tiền ngắn hạn.
Trong khi thiếu tiền để đầu tư cho ngành mình, anh lại điều hàng trăm tỉ sang lĩnh vực khác. Ai sẽ đảm bảo DNNN thực sự sẽ lấy ngắn nuôi dài, lấy khoản mới để đầu tư cho lĩnh vực của mình. Hay các DN vẫn dùng số tiền đó lao vào những lĩnh vực kia nhằm tìm kiếm lợi ích ngắn hạn. Tất cả cái đó chỉ là nguỵ biện. Ở các nước khác, trước khi muốn mở rộng kinh doanh, DN phải mạnh lĩnh vực của mình trước.
Hơn nữa, các ngành này đều có tính khả thi cao, không phải quá khó để huy động vốn, hoặc bằng hình thức kinh doanh liên kết. Nếu tập trung đầu tư cao vào lĩnh vực của mình, các tập đoàn hoàn toàn có thể tự mình phát triển mà không cần vươn ra ngoài quá lớn với lực mỏng như hiện nay.
Độc quyền không thể đòi thêm quyền
- Nhưng cũng khó trách các doanh nghiệp bởi vì việc tìm kiếm lợi nhuận là mục tiêu theo đuổi của bất kì DN nào, thưa bà?
Tập đoàn nhà nước có vai trò khác với bất kì DN nào. Họ cũng giống như vai trò của nhà nước trong hoạt động kinh doanh. Vai trò của nhà nước khác với quyền kinh doanh của người dân. Người dân được làm những gì mà pháp luật không cấm. Còn Nhà nước, DNNN chỉ được thực hiện quyền nhà nước của mình trong lĩnh vực mà luật pháp, nhà nước cho phép, không được lạm quyền trong lĩnh vực khác.
Đã được giao độc quyền, hưởng một vài đặc quyền, anh vẫn đòi quyền như những người không được hưởng những đặc quyền đó. DN độc quyền nhà nước rồi mà vẫn còn cho mình quyền làm sang lĩnh vực khác, bên cạnh việc phân tán lực lượng, sẽ tạo bất công và thiếu sòng phẳng.
|
Với DNNN, họ cần tập trung vào lĩnh vực then chốt nhà nước giao, bởi gần như họ được trao độc quyền kinh doanh. Đã được giao độc quyền, hưởng một vài đặc quyền, anh vẫn đòi quyền như những người không được hưởng những đặc quyền đó. DN độc quyền nhà nước rồi mà vẫn còn cho mình quyền làm sang lĩnh vực khác bên cạnh việc phân tán lực lượng, sẽ tạo bất công và thiếu sòng phẳng.
Ngay từ khi bàn về tập đoàn kinh tế, tôi đã thực tâm tin rằng, tập đoàn kinh tế nhà nước không nên đa dạng hoá ngành nghề, hoặc nếu có thì có quy chế nhất định. Ở Pháp, từng DNNN có luật riêng, nói rõ DN chỉ làm đến đâu, làm trong lĩnh vực gì.
Mặt khác, khi được giao trọng trách, lẽ ra DN phải gánh trách nhiệm đến cùng trong lĩnh vực của họ. Nếu không đảm đương nổi, họ cần đề nghị Nhà nước mở công ty thứ 2, thứ 3 để làm cùng với họ. Ngành Viễn thông, Hàng không đã thực hiện vậy, tại sao lĩnh vực khác không mở thêm cho DN khác tham gia? Ban đầu chưa giao tư nhân nhưng có thể một DNNN khác. Chí ít tạo cạnh tranh trong khu vực nhà nước.
Như ngành điện, anh một mình một chợ nhưng không đảm đương được, để mất điện như hiện nay thì rất phi lí, nhất là khi việc mất điện đã được cảnh báo cả 10 năm, không phải là đột biến mà không biết trước.
![](http://www.tuanvietnam.net/Library/Images/69/2008/04/inteves.jpg) |
Ảnh minh hoạ: Inteves.com
|
Với ngành điện, ông Chủ tịch Hội đồng Quản trị EVN còn cho rằng, lí do của việc thiếu điện chính là do sự chuyển hướng tiêu dùng của người dân khiến lượng tiêu thụ điện tăng đột biến?
Đó là sự nguỵ biện. Yêu cầu tăng điện mỗi năm đều dự báo trước, trung bình khoảng 15-20%, trong đó đã tính cả tiêu dùng. Chẳng nhẽ ngành điện muốn giữ cho đời sống người dân khó khăn mãi. Bản thân các vị ấy có sống tốt hơn, sử dụng nhiều thiết bị hiện đại hơn không?
Đổ lỗi cho người tiêu dùng là cách nghĩ vô trách nhiệm với người tiêu dùng của ngành điện. Là khách hàng, tức là thượng đế. Có lẽ không thượng đế nào khốn khổ bằng làm thượng đế ngành điện.
Thực tế, phần lớn lĩnh vực thượng đế không hài lòng đều rơi vào các ngành độc quyền: sân bay, điện... Những ngành đã mở rộng hệ thống cung cấp, ngay VNPT cũng được hài lòng hơn rất nhiều so với thời điểm một mình một chợ.
Tách thương mại và chính sách trong hoạt động của DNNN
- Vậy giải pháp nào để giúp DNNN cân bằng giữa đảm bảo mục tiêu kinh doanh và thực hiện chính sách của Nhà nước.
Về lâu dài, nên có sự tách biệt giữa hoạt động kinh doanh và hoạt động chính sách của các DN này. Cần có phần bù đắp cho khu vực dành cho vùng sâu, vùng xa, chính sách... thông qua hỗ trợ trực tiếp cho người tiêu dùng trả cho khu vực cung cấp theo giá thương mại hoặc là hỗ trợ cho DN đầu tư. Hình thức hỗ trợ trực tiếp cho người tiêu dùng thì tốt nhất. Nhưng khó thực hiện ngay. Trước mắt, có thể bù cho DNNN thực hiện việc đó.
Đồng thời, cái gì cạnh tranh được thì nên cho cạnh tranh, ví dụ cho DN đấu thầu làm cho khu vực vùng sâu, vùng xa. Ai làm tốt để NN cấp vốn hoặc làm và NN trả lại vốn. Tách được vấn đề chính sách NN đang gánh với phần kinh doanh. DNNN không được lấy lí do gánh phần chính sách này mà ảnh hưởng đến phần kinh doanh của họ.
Việc này hoàn toàn khả thi bởi, trong chiến lược phát triển, ta còn định rõ từng xã, từng vùng thuộc diện nghèo đói. Khoanh đối tượng cần hỗ trợ và người cung cấp cho khu vực đó để có chính sách ưu đãi riêng là có thể làm được. Từ đó, DN buộc phải chơi sòng phẳng ở khu vực thương mại. Hơn nữa, với sự phát triển của đất nước, phần làm chính sách ngày càng thu hẹp lại.
Quan trọng là mọi hoạt động phải được công khai, minh bạch.
- Nhà nước phải xử lý như thế nào đối với các DNNN trong tình hình hiện nay?
Trên thực tế, tìm sự tự nguyện không dễ. Nhà nước cần xiết lại quản lý, sắp đặt lại giám sát, đòi hỏi tối đa sự minh bạch của DNNN. Trước hết, nên giao trách nhiệm lớn cho các đơn vị: như Bộ tài chính để xem xét thêm hoạt động của DNNN như thế nào, kiểm soát chặt quyền tài chính của họ; SCIC tăng cường vai trò của mình tăng cường sự quản lý.
Hai là, kiểm toán nhà nước rất cần được giao quyền và năng lực đầy đủ để kiểm toán thường xuyên DNNN. Mật độ kiểm toán dày hơn. Kiểm toán để phát hiện sai phạm, không nhằm trừng trị mà phát hiện cái yếu, từ đó khắc phục vươn lên. Việc này vừa đảm bảo cái lợi về lâu dài cho năng lực cạnh tranh của tập đoàn, vừa giúp Nhà nước quản lý tốt hơn.
Ba là, hệ thống ngân hàng, đặc biệt các ngân hàng thương mại quốc doanh cần kiểm soát vốn vay tốt hơn. Trong cho vay tín dụng, vẫn còn tình trạng, nể nang, ảnh hưởng này khác, cho DNNN vay nhưng chưa chặt chẽ trong xem xét tính khả thi dự án trong so với DN tư nhân hoặc DNNN nhỏ.
Nếu ba nhóm đơn vị này làm việc chặt, hỗ trợ nhà nước sẽ rất tốt. Chưa kể các Bộ, ngành phải chịu trách nhiệm với các DN hoạt động trong lĩnh vực mà mình quản lý.
Thêm vào đó, chương trình cổ phần hoá đã được định hướng nên được tiếp tục thúc đẩy. Thời gian qua, TTCK biến động không thật thuận lợi cho IPO. Chúng ta nên tách bạch hai giai đoạn cổ phấn hoá và IPO ra. Nếu các DN cổ phần hoá cứ ra IPO ngay có thể bị đặt vào thế bất lợi hơn cho thị trường. Làm sao phải đẩy cải cách nhưng tránh bất lợi cho DNNN. Trì hoãn lâu, bất lợi DN và cả nền kinh tế, không ai được trong đó cả.
Cổ phần hoá cũng bộc lộ những khiếm khuyết nhưng không nên vì thế mà trì hoãn. Ngược lại, Nhà nước cần cải thiện, đổi mới quản trị DN như thế nào, tính giá đất như thế nào? Nếu không, cổ phần hoá chỉ đổi về danh nghĩa, còn thực chất, không đổi được, thậm chí sẽ thành tư hữu hoá, cá nhân hoá, rơi vào tay một vài lãnh đạo cũ.
- Phương Loan (tuanvietnam.net)
|