Sông Đáy chảy qua cái đất nổi tiếng với “trăm nghề”, không rõ là cơ duyên hay số phận. Bao năm qua, dòng sông phải hứng chịu hậu quả của mặt trái sự phát triển kinh tế, xã hội mà người ta vẫn dùng để “bọc lại” hành vi ứng xử thiếu văn hoá với con sông mẹ. Dọc hai bên bờ thượng nguồn sông Đáy, những làng nghề vẫn ngày đêm rỉ rả xả nước thải chưa qua xử lí, biến con sông thành một cái cống thải, như “điếc không sợ súng” trước nhắc nhở, vận dộng và cả xử phạt.
Những xóm chài xưa chỉ còn lại thế này.
|
1. Lúa ngắc ngoải, con gì sống được ?
Dòng sông “ăn thịt” những xóm chài
Tôi chủ ý đi tìm những xóm chài với mong muốn hiểu thêm “tính khí” của con sông Đáy, để được biết những đổi thay của nó qua cuộc đời của những người làm nghề chài lưới gắn bó với sông.
Và thật buồn, điều tôi nghe được là lời kêu cứu của một dòng sông đang… chết.
Ở tuổi thất thập cổ lai hi, ông Nguyễn Văn Hiếu ở xóm Chùa Cát (Lam Điền, Chương Mỹ, Hà Nội) đã một đời trọn vẹn với con sông Đáy. Đăm đăm nhìn về phía con sông đầy tiếc nuối, ông bảo: “Suốt dọc đoạn sông, từ Phùng về đến quãng này, xưa có đến cả chục xóm chài, đều sống bởi con tôm, con cá của dòng sông Đáy. Bây giờ thì chẳng còn gì!”
Cũng giống như những xóm chài ở dọc ven bờ con sông, bao đời nay, người dân xóm Chùa Cát sống bằng nghề chài lưới. Nhưng có lẽ không ai còn nhớ mẻ cá cuối cùng bắt được từ dòng sông này là khi nào nữa. Con sông Đáy vào mùa cạn nhìn rõ tình trạng bị bồi lấp, nước đen ngòm và toàn rác, lặng lờ gần như không chảy, luồn lách dưới những cây cầu tạm bợ bắc qua. Mùi hôi bốc lên từ phía dòng sông nồng nặc, bay vào tận sâu trong làng. Không ai biết chính xác nguyên nhân là gì, chỉ nôm na ngờ ngợ rằng đó là do ở phía đầu nguồn người ta thải ra.
Ông Hiếu trước cũng lừng danh sát cá ở xóm chài Chùa Cát. Ông kể: “Ngày xưa, người ta gọi Chùa Cát là xóm Bè vì các hộ dân ở đây đều sống nhờ việc thuyền chài, làm bè ở luôn trên sông, kiếm cá, ngày này qua tháng khác. Cá sông Đáy nhiều mà ngon lắm. Dọc hai bên sông đều có các xóm chài, phía dưới kia còn có Đồng Hoàng, Cao Bộ… Bây giờ thì hết rồi!”.
Hơn chục năm qua, kể từ ngày ô nhiễm về đến khúc sông này, các xóm chài thu hẹp dần rồi biến mất từ lúc nào không ai rõ. Ông Hiếu và cả gia đình ông bỏ nghề từ dạo ấy. Không còn thấy xóm Bè trên sông nữa. Các hộ dân chuyển dần lên bờ, tạm bợ sống với vài sào ruộng.
Sông Đáy, khúc chảy qua Chùa Cát nay đã bị bồi lấp đi nhiều. Nước sông bây giờ quá bẩn, không con gì sống được. “Ngày xưa, nước sông trong vắt, chỗ sâu cắm ngập cả một cây tre, tôm cá nhiều, có cả cá măng, cá nheo, bây giờ thì bẩn quá, không kiếm được gì mà ăn, chỉ còn mấy con rô, con trê hay ốc bươu vàng là sống được”- ông Hiếu than thở.
Chính ô nhiễm đã giết chết những xóm chài dọc đôi bờ sông Đáy. Người ta vẫn tiếc nuối và xót xa cho dòng sông, vẫn còn xót xa cho những xóm chài đã chết từ lâu.
Các bè nổi trên sông giờ cũng biến mất không còn dấu tích. Dòng sông trở nên cô đơn và dường như thật xa lạ.
“Ngậm oan” cùng sông Đáy
Người ta đổ lỗi cho sông Đáy đã “ăn thịt” những xóm chài, không để lại một dấu vết. Bây giờ, ở Lam Điền, năng suất lúa giảm mạnh, người ta cũng bảo tất cả tại dòng sông. Có tới 5 xã: Lam Điền, Đại Yên, Hoàng Diệu, Thuỵ Hương, Ngọc Sơn của huyện Chương Mỹ phải lấy nước từ trạm bơm Lam Điền để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Nước sông đen đặc vẫn phải bơm vào các kênh mương dẫn vào ruộng lúa.
Kết quả phân tích, đánh giá số liệu quan trắc chất lượng nước sông được tiến hành từ 11-2008 đến 10-2009 tại 22 điểm trên toàn bộ lưu vực của Cục Quản lí Tài nguyên nước cho thấy hầu như không một đoạn sông chính nào có chất lượng đạt tiêu chuẩn B1.
Thật chua chát, tiêu chuẩn B1 chính là tiêu chuẩn nước sử dụng cho mục đích tưới tiêu nông nghiệp. Nước tưới mà còn sợ, nói gì nước sinh hoạt
Tìm gặp anh Dương Quang Vinh, trưởng thôn Lam Điền, anh cho biết: “Tình trạng ô nhiễm của sông Đáy đã hàng chục năm qua, ảnh hưởng rất lớn đến không chỉ đời sống mà còn cả sự phát triển của nhân dân nơi đây. Các khu ruộng sau khi bơm nước sông ô nhiễm vào, năng suất lúa giảm rõ rêt. Lớp bùn đen đọng lại trên mặt ruộng vài tháng sau vẫn chưa hết”.
Thôn Lam Điền vốn là “vựa lúa” của xã Lam Điền. Nhiều năm nay, năng suất lúa đã giảm rõ rệt do phải sử dụng nước ô nhiễm chứa nhiều độc hại và sâu bệnh. Mặc dù người dân đã áp dụng nhiều tiến bộ khoa học, kĩ thuật, sử dụng giống mới có năng suất cao nhưng vẫn không bù lại được.
Nhà anh Vinh cũng có tới 6 sào ruộng. Anh bảo: Trước kia, khi nước sông chưa bị ô nhiễm, năng suất lúa thường là từ 2 tạ đến 2 tạ rưỡi mỗi sào nhưng bây gìơ thì giảm rõ rệt, chỉ còn trên dưới 1 tạ, nhà nào cao thì được tạ rưỡi mỗi sào. Anh Vinh cũng cho biết, nhiều lần thôn và xã đã phản ánh về tình trạng ô nhiễm này, tuy nhiên vẫn chưa có biến chuyển. Nhân dân vẫn mong mỏi sớm có biện pháp giải quyết để cứu lấy dòng sông và trả lại môi trường sống trong sạch.
Tôi hỏi anh Vinh rằng tại sao sông Đáy mấy năm nay ô nhiễm kinh khủng thế, anh ngậm ngùi: “Tại các làng nghề dọc hai bên bờ sông xả nước thải ra đầu độc chứ còn tại sao nữa”. Vào mùa cạn, tầm tháng 10 đến tháng 12 là thời cao điểm sản xuất của các làng nghề phía đầu nguồn, lại trùng dịp mùa cạn, nước sông đen ngòm như bồ hóng, lội xuống, váng bẩn dính chặt vào chân. Mùi hôi bốc lên khủng khiếp, bay vào sâu trong làng, cách đó hàng trăm mét còn ngửi được.
Chị Đỗ Thị Bích, bán hàng ngay bên cạnh dòng sông cho biết: “Sông bây giờ bẩn khủng khiếp. Ngày nào bán hàng tôi cũng phải bịt kín khẩu trang mà vẫn đau đầu vì mùi hôi bốc lên”. Chị Bích bảo, trước kia, chỉ khoảng 15 năm thôi, mọi người vẫn dùng nước sông để ăn, tắm giặt bình thường, bây giờ thì hình ảnh đó chỉ còn lại như một kỉ niệm đẹp, để kể lại cho nhau nghe mà nhiều lúc còn không dám tin.
Trước kia, lúc mới bắt đầu nhiễm bẩn, mọi người vẫn xuống tắm và rửa ráy, ai cũng bị các bệnh ngoài da. Sau thì các gia đình biết nguyên nhân nên phải làm giếng khoan nhưng cũng chỉ để rửa ráy, nước ăn phải dùng nước mưa vì càng ngày, nước sông lẫn vào nước giếng, nhất là các hộ dân ở ven bờ.
Sông Đáy bây giờ mắc phải tiếng oan tày trời, “làm tình làm tội” người dân sống dọc hai bên bờ.
Con sông tức tưởi kêu cứu. Không ai còn nhận ra diện mạo của dòng sông từng được nhà thơ Lai Vu ca ngợi: “Dòng sông Đáy quê em. Sông trăng hay sông lụa” nữa. Sông trăng, sông lụa đã trôi về quá khứ.
Tiếc nuối cho một dòng sông, theo lời chỉ dẫn của anh Vinh, trưởng thôn Lam Điền, tôi ngược dòng tìm về phía những làng nghề.
Đó là nơi tạo ra nguồn lợi kinh tế, nguồn thu nhập của nhiều người, là một diện mạo khác của nông thôn. Đó là hiện thực. Hiện thực vui.
Nhưng đó cũng là nơi góp phần đắc lực, từng ngày từng giơ ngang nhiên bức hại dòng sông Đáy. Đó cũng là hiện thực. Hiện thực buồn.
2. Nghịch lý giữa phát triển và môi trường
Theo hướng dẫn của anh Dương Quang Vinh, trưởng thôn Lam Điền, tôi ngược dòng, men theo bờ đê tả ngạn sông Đáy tìm về ba xã nổi tiếng khắp gần xa: Dương Liễu, Cát Quế, Minh Khai thuộc địa bàn huyện Hoài Đức, Hà Nội chuyên sản xuất, chế biến tinh bột, miến, bún khô, mạch nha…. đồng thời cũng là ba xã nằm gần nhất thượng nguồn con sông Đáy tai tiếng về ô nhiễm và xả thải vào con sông này.
Đến nơi nhức nhối nhất về ô nhiễm tại Dương Liễu, ông Nguyễn Phi Đức, Chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp Dương Liễu cho biết: Chỉ riêng xã Dương Liễu đã có tới hơn 2600 hộ, chiếm tới 70% số hộ tham gia sản xuất. Đây là xã có truyền thống từ những năm 60 về sản xuất, chế biến nông sản, đến năm 2000, được công nhận là làng nghề, sản xuất được mở rộng, kéo theo đó, ô nhiễm gia tăng “ngoài sức tưởng tượng”.
Theo ông Đức, khu xử lí chất thải của làng nghề tại Dương Liễu được đầu tư xây dựng từ năm 1994, 10 năm sau mới hoàn thành. Đến nay, giao cho Công ti TNHH Mặt Trời Xanh quản lí nhưng không phát huy hiệu quả và cũng không khắc phục được tình trạng ô nhiễm do công suất quá nhỏ so với thực tế.
Tiếp xúc với các hộ sản xuất ở đây, mới thấy mức độ ô nhiễm cúa môi trường ngày càng nặng”. Để sản xuất một tấn tinh bột sắn, cần từ 10 đến 15 mét khối nước còn để sản xuất một tấn tinh bột dong, lượng nước sử dụng gấp tới hơn ba lần. Như vậy, nỗi ngày, hàng trăm tấn bã thải, hàng chục nghìn mét khối nước thải của làng nghề chưa qua xử lí, đã được tự do xả vào hệ thống kênh rồi theo đó đổ ra sông Đáy.
Ông Đức bảo “trên huyện đang họp, chuẩn bị lập dự án lên tới 260 tỉ để xử lí chất thải và nước thải làng nghề tại Dương Liễu”, tôi khấp khởi mừng. Nhưng liên tưởng đến dự án trước chỉ có vài tỉ đồng mà tới tận 10 năm mới hoàn thành, thì… niềm vui bỗng hụt hẫng.
Cho đến giờ, hầu hết nước thải và chất thải của các hộ dân sản xuất tại Dương Liễu và 2 xã lân cận là Cát Quế và Minh Khai vẫn đổ thẳng ra môi trường. Con sông vẫn oằn mình gánh chịu ô nhiễm suốt mấy chục năm qua. Ông Đức phân trần rằng, “ô nhiễm chủ yếu do ý thức của người dân và hệ thống cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ”, còn “mặt tích cực của làng nghề là đã giải quyết công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của xã, của huyện, nâng cao đời sống của nhân dân.”
Cũng chẳng trách được. Thực tế ấy đúng lắm. Rằng đang nghèo, rằng đang phát triển, rằng phải lo cuộc sống hàng ngày, thì phải chấp nhận.
Đã qua rồi thời kỳ phát triển kinh tế bắt chấp mọi giá. Bảo vệ môi trường, sự hài hoà với thiên nhiên chính là chứng chỉ của một nền kinh tế phát triển bền vững.
Nhưng dường như ô nhiễm và tăng trưởng kinh tế vẫn là một nghịch lí phát triển của các làng nghề, không chỉ dọc con sông Đáy.
Từ Hoài Đức xuôi dòng về Chương Mỹ rồi qua Mỹ Đức, nhiều làng nghề “điếc không sợ súng”, dù đã bị xử phạt về việc xả nước thải độc hại ra môi trường nhưng rồi vẫn “đâu vào đấy”, tiếp tục đầu độc dòng sông Đáy. Người dân cho tôi hay đến nay, “xóm thùng phuy” vẫn chưa được giải tán còn các cơ sở tẩy, nhuộm, hấp tại Phùng Xá thì vẫn ngày đêm rỉ rả ra sông Xử lí chưa triệt để? Họ đang thách thức pháp luật? Hay pháp luật đang thách thức thực tiễn vì những điều, những khoản chưa sát, chưa nghiêm ?
Với tiếng búa chát chúa suốt ngày đêm, những hàng thùng phuy chất cao ngất ngay ven Quốc lộ 6, dễ dàng nhận ra “xóm thùng phuy” danh bất hư truyền suốt mấy năm qua, nằm chềnh ềnh dưới chân cầu Mai Lĩnh (thuộc xã Đồng Mai, quận Hà Đông, Hà Nội).
Một người dân sống gần khu vực cho biết: Các hộ gia đình này làm nghề “mổ” thùng phuy từ năm 1996. Thùng phuy mua về được súc rửa, nung, đục, tán, ngâm hóa chất trong những bể xút (dung dịch NaOH) nồng độ đậm đặc để xử lý.
Rác, cặn và nước thải của tất cả công đoạn này - trời ơi- đều đổ thẳng ra sông Đáy ngay phía sau.
Dân Đồng Mai đã tưởng vui mừng khi tháng 5-2009, UBND quận Hà Đông có công văn 422/UBND yêu cầu các cơ quan chức năng phối hợp UBND xã Đồng Mai xử phạt nghiêm khắc những hộ gây ô nhiễm môi trường và giải tán lập tức “xóm thùng phuy”. Nhưng gần hai năm trôi qua, “xóm thùng phuy” vẫn ngang nhiên tồn tại.
Chưa hết bàng hoàng với “xóm thùng phuy”, khi xuôi về Phùng Xá (Mỹ Đức, Hà Nội), được biết đã hơn một năm trôi qua kể từ khi các cơ sở hấp, tẩy, nhuộm khăn bông ở đây bị Cục Cảnh sát môi trường xử phạt (tháng 12-2009), đến nay, tình trạng xả thải vẫn tiếp tục. Lí do đơn giản bởi các doanh nghiệp ở đây vẫn tiếp tục sản xuất, trong khi các dự án xử lí nước thải chỉ nằm trên giấy.
Khi tìm gặp ông Nguyễn Văn Kiên, Chủ tịch UBND xã Phùng Xá xác minh những thông tin này, ông Kiên cho biết: “Hiện vẫn chưa có khu xử lí nước thải nào. Cuối năm 2010, sau khi bị xử phạt, một số công ty đã xây dựng đề án xử ly nước thải và đã được phê duyệt, nhưng đến nay, vẫn đang ở mức độ triển khai thực hiện.”
Xã Phùng Xá là một làng nghề chuyên sản xuất khăn bông. Các doanh nghiệp tẩy, nhuộm, hấp cung cấp nguyên liệu cho hàng nghìn hộ sản xuất ở đây. Hàng ngày, hàng nghìn mét khối nước thải chứa các loại hoá chất từ tẩy, nhuộm, hấp như: gia-ven, sút, sô-đa… không qua bất kỳ khâu xử lý nào theo các đường dẫn ngầm, đục qua mặt đê, xả thẳng vào sông Đáy.
Quan sát mắt thường cho thấy, chỉ trong khoảng 30 phút khi hoà nhập với nước sông, đoạn sông đổi màu liên tục, từ xanh đến nâu, rồi sang đỏ gạch, mùi các loại hoá chất bốc lên nồng nặc. Đã hàng chục năm qua, con sông phải “uống” nguồn nước thải độc hại này. Người ta buộc phải đặt câu hỏi, “xử lý” nên được hiểu là gì, là phạt cho tồn tại, là làm cho qua chuyện, chứ không phải nhằm răn đe triệt để nên các doanh nghiệp ở đây vẫn coi thường pháp luật?
Chưa hết, người dân ở đây còn cho biết, cùng với các cơ sở này, nước thải từ sông Nhuệ cũng xả nước ô nhiễm, đầu độc sông Đáy một cách không thương tiếc qua cống Thanh Ấm. Từ cầu Phùng Xá nhìn chếch xuôi dòng sông Đáy có thể dễ dàng nhận thấy cống Thanh Ấm nối một nhánh của sông Nhuệ xả nước vào sông Đáy. Chị Nguyễn Thị Bắc, nhà ngay cạnh cầu Phùng Xá kể: “Mỗi lần cống Thanh Ấm xả nước, bọt trắng cả khúc sông, mùi hôi nồng nặc, cá chết hàng loạt”.
Trao đổi với chủ tịch UBND xã Phùng Xá, ông Kiên cho hay: “Chuyện cống Thanh Ấm như nhân dân phản ánh là có thật. Có lần, cống xả nước, bọt cao hàng mét, lan trắng cả khúc sông dài hàng mấy trăm mét. Xã cũng đã kiến nghị nhiều lần trong các kỳ họp HĐND và cả tiếp xúc cử tri Quốc hội nhưng vẫn chưa thể giải quyết”.
Bao đổi thay kể từ khi con sông ô nhiễm. Từ thượng nguồn, nước ô nhiễm vẫn xuôi về hạ lưu, vẫn là nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu nông nghiệp.
Sông Đáy kêu không thấu. Người cũng kêu chưa thấu. Cứu sông tức là cứu người đang sống, những làng nghề đã và sẽ phát triển trong hội nhập bền vững, cứu sức khoẻ của các thế hệ mai sau, cứu một môi trường trong lành mà một khi đã mất đi, tốn kém rất nhiều cũng chưa chắc đã khôi phục được.
Dòng nước đen kịt, hôi hám của con sông từng là “sông trăng, sông lụa” trong quá khứ chưa xa kia, không phải là điều chúng ta hướng tới để xây dựng một xã hội giàu có, văn minh.
Bài và ảnh Đinh Hữu Dư (theo nhandan.com.vn)
|