So với những năm đầu của kế hoạch 5 năm 2006-2010, tỷ lệ các KCN đã đi vào hoạt động có công trình xử lý nước thải tập trung đi vào vận hành đã tăng lên đáng kể, từ gần 35% trong năm 2006 lên 60% năm 2011. Dự kiến Kế hoạch 5 năm 2011-2015 đã đặt ra mục tiêu đến năm 2015, 100% các KCN đã đi vào hoạt động có công trình xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường.
Thực trạng công tác bảo vệ môi trường KCN
1.1. Một số kết quả đã đạt được
Hiện nay trên địa bàn cả nước có 260 KCN đã được thành lập với tổng diện tích hơn 71.000 ha, trong đó có 173 KCN đã đi vào hoạt động, 87 KCN đang giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản. Trong đó, 105 KCN đã xây dựng và đi vào vận hành công trình xử lý nước thải tập trung, chiếm 60% tổng số các KCN đã đi vào hoạt động. Ngoài ra, còn 43 KCN đang xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung và dự kiến đưa vào vận hành trong thời gian tới.
Như vậy, so với những năm đầu của kế hoạch 5 năm 2006-2010, tỷ lệ các KCN đã đi vào hoạt động có công trình xử lý nước thải tập trung đi vào vận hành đã tăng lên đáng kể, từ gần 35% trong năm 2006 lên 60% năm 2011. Dự kiến Kế hoạch 5 năm 2011-2015 đã đặt ra mục tiêu đến năm 2015, 100% các KCN đã đi vào hoạt động có công trình xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường.
Ngoài việc tăng số lượng KCN xây dựng và vận hành công trình xử lý nước thải tập trung, theo báo cáo của nhiều địa phương, đặc biệt là các địa phương tập trung nhiều KCN như Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, ý thức bảo vệ môi trường của các chủ đầu tư hạ tầng KCN cũng như của các doanh nghiệp thứ cấp trong KCN cũng đã được cải thiện theo hướng tích cực. Các sở, ngành ở địa phương đã tập trung chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc doanh nghiệp thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường.
1.2. Một số biện pháp quản lý đã thực hiện
Để có được những kết quả nêu trên, trong thời gian qua, các cơ quan quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực môi trường KCN đã nỗ lực xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách và triển khai thường xuyên nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường. Một số công việc cụ thể đã triển khai là:
+ Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT ngày 15/7/2009 quy định về bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu công nghiệp và cụm công nghiệp, trong đó quy định cụ thể những nhiệm vụ của công ty phát triển hạ tầng, doanh nghiệp trong từng giai đoạn phát triển của KCN. Đây là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác quản lý môi trường KCN.
+ Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 quy định về KCN, KCX và KKT, trong đó quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của Ban quản lý KCN, KKT trong công tác thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, xác nhận bản cam kết bảo vệ môi trường theo hướng tăng cường phân cấp, ủy quyền cho Ban quản lý KCN, KKT trong thực hiện một số nhiệm vụ bảo vệ môi trường KCN, KKT. Việc tăng cường phân cấp, ủy quyền cho Ban quản lý KCN, KKT đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Ban quản lý KCN, KKT-cơ quan quản lý Nhà nước trực tiếp các KCN, KKT thực hiện sát sao hơn nhiệm vụ quản lý, kiểm tra, giám sát môi trường KCN, KKT.
+ Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 43/2009/QĐ-TTg ngày 19/3/2009 về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương cho xây dựng cơ sở hạ tầng KCN ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (thay thế Quyết định 183/2004/QĐ-TTg ngày 19/10/2004). Theo đó, các KCN ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được ngân sách Trung ương hỗ trợ một phần cho xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung cho KCN. Việc triển khai Quyết định số 183/2004/QĐ-TTg và Quyết định số 43/2009/QĐ-TTg đã góp phần tích cực trong việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung ở các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng thường xuyên có văn bản chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn các địa phương tăng cường quản lý môi trường KCN, KKT; phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường triển khai thanh tra, kiểm tra tình hình hoạt động của các KCN, KCX, KKT, trong đó có tình hình bảo vệ môi trường KCN, KCX, KKT; tổ chức các hội thảo chuyên đề về bảo vệ môi trường KCN, KCX, KKT, qua đó thu thập thông tin, ý kiến của các cơ quan Nhà nước Trung ương, địa phương và doanh nghiệp để nắm bắt tình hình thực tế, nghiên cứu điều chỉnh các quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường KCN, KCX, KKT.
1.3. Những hạn chế, bất cập
Nỗ lực của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc cải thiện, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường KCN, KCX, KKT trong thời gian qua đã được khẳng định qua ý kiến của nhiều địa phương và doanh nghiệp và được thể hiện qua những kết quả cụ thể nói trên.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, vẫn còn những hạn chế, bất cập trong công tác tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường của một số KCN và doanh nghiệp KCN cũng như công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. Những vấn đề hạn chế, bất cập chủ yếu là: việc tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường của doanh nghiệp còn yếu; việc xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại, nước thải tại một số KCN còn chưa được thực hiện nghiêm túc, ảnh hưởng tới môi trường tự nhiên, môi trường sống của người dân khu vực xung quanh KCN.
Những hạn chế, bất cập này do các nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó một số nguyên nhân chủ yếu là:
- Ý thức tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường của công ty phát triển hạ tầng KCN, doanh nghiệp KCN còn hạn chế;
- Tại một số địa phương do còn khó khăn đã chỉ tập trung thu hút các dự án đầu tư, chưa chú trọng đến công tác bảo vệ môi trường của các dự án;
- Bộ máy, biên chế của các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan đến bảo vệ môi trường KCN, KKT còn mỏng ở cả cấp Trung ương và địa phương, chưa đáp ứng được mức độ phát triển ngày càng lớn của các KCN, KKT và doanh nghiệp KCN, KKT;
- Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan cấp Trung ương (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường) và cấp địa phương (Ban quản lý KCN, KKT, Sở Tài nguyên và Môi trường, cảnh sát môi trường) còn chưa thực sự chặt chẽ, thường xuyên.
- Theo Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008, một số Ban quản lý KCN, KKT đã thành lập bộ phận Thanh tra, nhưng vai trò của Ban quản lý KCN, KKT trong công tác thanh tra KCN, KKT nói chung và môi trường KCN, KKT nói riêng còn chưa rõ ràng do pháp luật hiện hành về Thanh tra không quy định Thanh tra Ban quản lý KCN, KKT trong hệ thống thanh tra Nhà nước.
- Tại các Ban quản lý KCN, KKT có phòng Môi trường, tuy nhiên chưa được trang bị các thiết bị, dung cụ quan trắc cần thiết để kịp thời phát hiện những sai phạm trong công tác môi trường. Mặt khác, theo pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, Ban quản lý KCN, KKT không có quyền xử phạt vi phạm hành chính khi phát hiện các sai phạm về môi trường nên làm giảm hiệu quả công tác quản lý môi trường.
- Ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn còn hạn chế. Mặt khác, việc huy động các nguồn vốn đầu tư cho xây dựng công trình xử lý nước thải còn nhiều khó khăn. Doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN gặp nhiều trở ngại về thủ tục vay vốn từ Quỹ môi trường, ngân hàng, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): nguồn vốn vay hạn chế, lãi suất cao, điều kiện cho vay phức tạp do dự án xây dựng công trình xử lý nước thải khó hoàn vốn.
2. Nhiệm vụ cần triển khai trong thời gian tới
Để thực hiện tốt hơn công tác bảo vệ môi trường KCN, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
2.1. Thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường KCN, KKT: Trong năm 2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ chủ trì, phối hợp với một số bộ, ngành liên quan triển khai một cuộc kiểm tra tình hình thực hiện quy hoạch KCN ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam-nơi tập trung nhiều KCN nhất cả nước, trong đó có nội dung kiểm tra tình hình, tiến độ xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung của các KCN. Trong năm 2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng sẽ chủ trì tổ chức ba cuộc kiểm tra tình hình sử dụng vốn hỗ trợ ngân sách Trung ương cho xây dựng một số hạng mục hạ tầng KCN (công trình xử lý nước thải tập trung, giải phóng mặt bằng, xây dựng đường trục chính theo Quyết định số 43/2009/QĐ-TTg ngày 19/3/2009 của Thủ tướng Chính phủ) tại một số địa phương vùng Trung du và miền núi Bắc bộ, miền Trung và Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.
2.2. Tiếp tục triển khai công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch KCN đảm bảo hiệu quả, chặt chẽ: Giám sát chặt chẽ, chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương thành lập KCN đúng theo Quy hoạch tổng thể phát triển KCN cả nước được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đáp ứng đủ điều kiện thành lập mới, mở rộng KCN theo quy định; triển khai xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng KCN, trong đó có các công trình xử lý chất thải KCN theo đúng quy hoạch chi tiết KCN được duyệt và tiến độ đã cam kết. Ngoài ra, trong quý I/2011, trong chương trình tổng kết 20 năm xây dựng và phát triển KCN, KKT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổ chức Hội thảo chuyên đề về môi trường KCN, KKT để các nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp phát triển hạ tầng và doanh nghiệp KCN, KKT thảo luận, đề xuất hoàn thiện các cơ chế, chính sách về môi trường KCN, KKT trong thời gian tới để đảm bảo thực hiện nghiêm túc vấn đề bảo vệ môi trường KCN, KKT.
2.3. Nghiên cứu, điều chỉnh cơ chế, chính sách quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực môi trường KCN: Hiện Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tổ chức điều tra, nghiên cứu toàn diện tình hình bảo vệ môi trường, xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung trong KCN để đề xuất các biện pháp tổng thể điều chỉnh cơ chế, chính sách hiện hành nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường KCN. Trong thời gian tới, cơ chế, chính sách quản lý KCN, KKT trong lĩnh vực môi trường cần điều chỉnh theo hướng:
- Xây dựng cơ chế phân công trách nhiệm và phối hợp giữa Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban quản lý KCN, KKT địa phương, cảnh sát môi trường trong công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý Nhà nước về môi trường KCN, KKT; tăng cường phối hợp giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài nguyên và Môi trường và các cơ quan liên quan trong công tác quản lý Nhà nước về KCN, KKT.
- Tăng cường phân cấp cho Ban quản lý KCN, KKT trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về môi trường trong KCN, KKT gắn với tăng cường cơ chế phối hợp, hướng dẫn giữa các cơ quan Trung ương và địa phương cũng như tăng cường bộ máy, nhân lực, thiết bị cho Ban quản lý KCN, KKT, Sở Tài nguyên và Môi trường để thực hiện tốt hơn công tác bảo vệ môi trường KCN, KKT.
- Xác định rõ vị trí, vai trò của Thanh tra Ban quản lý KCN, KKT trong hệ thống Thanh tra Nhà nước để đảm bảo thẩm quyền của Ban quản lý KCN, KKT trong việc thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử phạt hành chính đối với hoạt động của KCN, KKT nói chung và bảo vệ môi trường KCN, KKT nói riêng.
- Tăng cường vai trò của các cơ quan Nhà nước trong công tác tuyên truyền, vận động, tăng cường năng lực và nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất kinh doanh, xây dựng và phát triển KCN, KKT theo hướng bền vững.
Th.S Vũ Quốc Huy - Vụ Quản lý các KKT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư |