Cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hệ thống đô thị nước ta đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Với tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm 12,6% và đóng góp 70% GDP vào nền kinh tế quốc dân, hệ thống đô thị luôn giữ vai trò trung tâm, động lực phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Tuy nhiên, với những đặc trưng vốn có của nó, sự phát triển đô thị ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề về môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu phát triển bền vững.
Thực trạng ô nhiễm môi trường đô thị
Là một nước nông nghiệp chậm phát triển, lại phải hứng chịu hậu quả của các cuộc chiến tranh triền miên, từ năm 2000 trở về trước, đô thị Việt Nam phát triển chậm, mamh mún, chủ yếu là tự phát; nhiều vấn đề không được quan tâm, nhất là kết cấu hạ tầng, các vấn đề xã hội và môi trường đô thị.
Bước vào thời kỳ đổi mới, với mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, giải pháp phát triển hệ thống đô thị theo hướng hiện đại. Sau hơn 10 năm thực hiện Quyết định số 10/1998/TTg phê duyệt “Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2020” của Thủ tướng Chính phủ, hệ thống đô thị Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ. Mạng lưới đô thị quốc gia đã được mở rộng và phát triển khá đồng đều tại các vùng, dọc theo các trục hành lang kinh tế. Hiện cả nước đã có 745 đô thị, diện tích đất đạt 391.000ha, chỉ tiêu đất xây dựng trung bình là 145m2/người, dân số đạt gần 27 triệu người, tỷ lệ đô thị hoá đạt khoảng 30%. Dự báo, đến năm 2015, cả nước sẽ có 870 đô thị, quy mô dân số đạt khoảng 35 triệu người, tỷ lệ đô thị hoá đạt khoảng 38%; đến năm 2025, cả nước có khoảng 1000 đô thị, quy mô dân số ở vào khoảng 52 triệu người, tỷ lệ đô thị hoá đạt khoảng 50%.
Cùng với tốc độ đô thị hóa nhanh, tình trạng môi trường ở các đô thị nước ta đang có xu hướng ngày càng xấu đi.
Trước hết là tình trạng ô nhiễm không khí. Có thể nói, ô nhiễm môi trường không khí là một vấn đề bức xức đối với đô thị nước ta hiện nay. Kết quả quan trắc môi trường không khí đô thị do cơ quan bảo vệ môi trường thực hiện cho thấy, hầu hết các đô thị Việt Nam đều bị ô nhiễm không khí trầm trọng, nhất là ô nhiễm bụi, ô nhiễm khí SO2, CO, NO2… và tiếng ồn.
Nồng độ bụi trong không khí ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng và một số đô thị loại 1 đã cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến 3 lần (1), đặc biệt là ở các công trình xây dựng, nồng độ bụi cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 10 đến 20 lần, ở các số nút giao thông cao hơn 5 lần.
Kết quả quan trắc liên tục từ năm 2002 đến năm 2007 cho thấy nồng độ bụi trên các tuyến phố ở một số thành phố lớn như sau: tại Thành phố Hồ Chí Minh dao động từ 0,31 đến 2,69 mg/m3; tất cả các lần đo đều có nồng độ bụi trung bình vượt TCVN 5937-2005 (mức cho phép tối đa là 0,3mg/m3); tại Hà Nội, nồng độ bụi đo được trên các tuyến phố trung bình là 0,5mg/m3, trong đó 60% vượt TCVN 5937-2005 và 25% vượt tiêu chuẩn này 2 lần; tại Đà Nẵng, Hải Phòng… nồng độ bụi đều đã vượt tiêu chuẩn cho phép.
Khí SO2, NO2, H2S, chì (Pb) thải ra chủ yếu từ hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là chính (chiếm 95% so với 3% từ phương tiện giao thông và 2% từ sinh hoạt của người dân). Ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, nồng độ khí CO và NO2, mặc dù theo kết quả trắc nghiệm vẫn đang trong tầm kiểm soát, nhưng đang có nguy cơ tăng cao, nếu chính quyền các đô thị không chuyển nhanh các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề ra khỏi trung tâm thành phố.
Kết quả quan trắc môi trường cũng cho thấy, phần lớn các đô thị Việt Nam có mức ồn vào ban ngày ở vào khoảng từ 75 đến 85dBA. Tiếng ồn chủ yếu là do hoạt động vận tải và sản xuất công nghiệp gây ra. Trên nhiều điểm nút giao thông ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, tiếng ồn đã đạt đến độ từ 90 đến 100 dBA, vượt xa tiêu chuẩn cho phép.
Thứ hai là vấn đề ô nhiễm môi trường do rác thải đô thị. Rác thải đô thị phát sinh mỗi lúc một tăng, trong khi đó việc thu gom, xử lý rác thải, đặc biệt là rác thải y tế và rác thải rắn công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở các đô thị ngày càng khó khăn. Ước tính, mỗi năm toàn quốc thải ra khoảng 13 triệu tấn rác, trong đó khu vực đô thị là 7 triệu tấn/năm, chiếm 55,8%. Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển đô thị đúng như Chương trình phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn tới, thì đến năm 2020 số rác thải ở vào khoảng 22-23 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, cho đến nay công tác quản lý chất thải đô thị vẫn còn nhiều yếu kém, đặc biệt là vấn đề thu gom và xử lý (mới chỉ đạt khoảng 60%). Việc thu gom và xử lý chất thải đô thị được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp chôn lấp, mới chỉ có 16/63 tỉnh, thành phố có bãi chôn lấp được thiết kế xây dựng hợp vệ sinh nhưng hầu hết đều chưa đồng bộ, nên vẫn gây ô nhiễm môi trường đất, mặt nước, nguồn nước ngầm khá trầm trọng. Ở nhiều nơi, việc chôn lấp rác thải do không chấp hành nghiêm túc các yêu cầu kỹ thuật, gây ô nhiễm môi trường khu vực xung quanh các hố chôn lấp, gây bức xúc, dẫn đến các vụ cản trở đông người, khiếu kiện tập thể kéo dài của người dân địa phương. Trong khí đó, lượng rác thải y tế do hệ thống bệnh viện thải ra mỗi ngày cũng lên đến 230.000 tấn, trong đó có 30.000 tấn rác thải nguy hại. Nhiều bệnh viện, nhất là cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân, không có hệ thống xử lý rác thải y tế; tình trạng tái chế chất thải y tế thành đồ sinh hoạt gây nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng vẫn còn xảy ra.
Thứ ba là vấn đề ô nhiễm môi trường nước. Các đô thị nước ta có một đặc điểm khá giống nhau, đó là hệ thống nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp, y tế đều chung nhau một hệ thống cống thoát, không được xử lý trước khi đổ vào các dòng sông, nên gây ô nhiễm môi trường rất trầm trọng. Kết quả quan trắc môi trường liên tục trong nhiều năm cho thấy, lưu vực các sông và hệ thống kênh rạch nội đô của Hà Nội đều ở tình rạng ô nhiễm nặng. Tại các điểm lấy mẫu ở sông Nhuệ, hàm lượng cặn lơ lửng chiếm từ 40 đến 60mg/lít, vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến 3 lần. Mức độ ô nhiễm khí độc ở các dòng sông của Hà Nội đã đến mức báo động. Hầu hết các điểm đo trong lưu vực các sông đều có nồng độ vượt từ 5 đến 6 lần cho phép. Đặc biệt, hàm lượng NH4 ở sông Nhuệ trung bình có từ 1,2 đến 1,7mg/lít, vượt tiêu chuẩn cho phép từ 25 đến 33 lần; ở sông Đáy vượt từ 1,2 đến 30 lần. Trên lưu vực các sông Sài gòn, Đồng Nai và các sông khác thuộc khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ, tình trạng ô nhiễm còn nặng nề hơn. Hầu hết hàm lượng các chất độc hại đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2,5 đến 43 lần. Hệ thống sông Đồng Nai, Sài Gòn, trung bình mỗi ngày tiếp nhận trên 100.000m3, trong đó có chứa khoảng 77 tấn COD, 20 tấn BOD5, 1,6 tấn ni-tơ. Sông Thị Vải hiện đang tiếp nhận nhiều nước thải công nghiệp nhất, với gần 45.000 m3/ngày; sông Sài Gòn là nơi tiếp nhận tải lượng BOD5 nhiều nhất, với gần 13.000kg/ngày; sông Đồng Nai là nơi tiếp nhận lượng COD nhiều nhất, khoảng 35 tấn/ngày.
Nguyên nhân và tác hại do môi trương đô thị bị ô nhiễm
Tác hại của ô nhiễm môi trường đô thị là rất lớn, xét cả trên bình diện thiệt hại về kinh tế và sức khỏe cộng đồng. Ô nhiễm môi trường gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế, do Nhà nước phải chi một lượng ngân sách không nhỏ để cải thiện môi trường và khắc phục hậu quả do ô nhiễm không khí gây ra, đồng thời người dân phải dành một phần đáng kể thu nhập để chữa bệnh. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam có thể phải chịu tổn thất lên tới 5,5% GDP hằng năm do ô nhiễm môi trường; mỗi năm, Nhà nước và người dân cũng phải bỏ ra hàng trăm triệu USD chi cho lĩnh vực chăm sóc sức khỏe do ô nhiễm môi trường gây ra. Đã có khá nhiều thành phố có nguy cơ đánh mất tiềm năng du lịch chỉ vì ô nhiễm môi trường (điển hình là Hạ Long và Cẩm Phả). Mức độ sạch đẹp của Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh cũng đang bị suy giảm do ô nhiễm môi trường. Đó cũng là một thách thức đối với ngành du lịch của hai trung tâm du lịch lớn của cả nước.
Đặc biệt, ô nhiễm môi trường đô thị gây tổn hại khá nặng nề đối với sức khỏe cộng đồng. Các chỉ số dịch tễ cho thấy, tỷ lệ mắc bệnh do ô nhiễm môi trường gây ra của người dân đô thị và xung quanh khu công nghiệp bao giờ cũng cao hơn ở nông thôn. Kết quả nghiên cứu về tình trạng bệnh tật do ô nhiễm không khí của cư dân sống trong khu công nghiệp Cao - Xà - Lá (quận Thanh Xuân, Hà Nội) thuộc Dự án “Nâng cao chất lượng không khí tại các nước đang phát triển ở châu Á năm 2004” cho thấy: tỷ lệ mắc bệnh viêm phế quản mãn tính là 6,4%, viêm đường hô hấp là 54%, triệu chứng về mắt là 28,5%, triệu chứng về mũi là 17,4%, triệu chứng về họng là 31,4%, triệu chứng về da là 17,6%, triệu chứng thần kinh thực vật là 30,6%, triệu chứng đáp ứng thần kinh là 40,7% và rối loạn các chức năng không khí phổi là 29,4%. Tỷ lệ mắc hen phế quản của các cư dân sống trong khu vực nội thành Hà Nội cao gấp 1,4 lần so với cư dân vùng ngoại thành, đặc biệt là bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính có chiều hướng tăng ngày một cao. ven biển khác sẽ bị ngập lụt do lũ lụt và triều cường.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do:
- Trình độ quản lý đô thị và bảo vệ môi trường đô thị của chính quyền đô thị và các ngành chức năng còn nhiều hạn chế, không theo kịp với tốc độ phát triển của hệ thống đô thị. Đất dành cho phát triển đô thị đang bị khai thác kém bền vững, làm giảm diện tích cây xanh và mặt nước, gây úng ngập, cạn kiệt và ô nhiễm tài nguyên nước. Vấn đề môi trường chưa được đề cập một cách đầy đủ và chưa được quan tâm đúng mức trong quy hoạch đô thị, cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị về môi trường như hệ thống thoát nước, thu gom và xử lý rác thải, nước thải, giảm thiểu ô nhiễm không khí, tiếng ồn... còn quá nhiều yếu kém. Tất cả các chỉ số về đất xây dựng đô thị, đất giao thông, tỷ lệ cây xanh, hệ thống cấp nước, thoát nước, thu gom, xử lý rác thải… ở các đô thị đều chưa đạt chuẩn.
- Công tác quy hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề truyền thống, cơ sở y tế ở các đô thị vẫn chưa đồng bộ, thiếu tính chiến lược, chưa lường hết các yếu tố môi trường. Trong nội thành Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội vẫn còn khá nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được xây dựng trước năm 1980, thậm chí trước năm 1975, với công nghệ, máy móc cũ kỹ, lạc hậu và cơ sở y tế gây ô nhiễm môi trường chưa được di dời ra ngoại vi thành phố. Quy hoạch phát triển không gian đô thị, do thiếu tư duy chiến lược nên chưa quan tâm nhiều đến vấn đề môi trường, dẫn đến tình trạng có khá nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp được xây dựng trước đây nằm xen kẽ với các khu dân cư, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân.
- Sự phát triển hạ tầng giao thông đô thị không theo kịp với tốc độ phát triển của các phương tiện tham gia giao thông. Đường chật hẹp, phương tiện giao thông đông dẫn đến khói, bụi, tiếng ồn ở các thành phố lớn đang là một vấn đề bức xức lớn của xã hội nhưng chưa được khắc phục. Đây chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra ô nhiễm không khí đô thị.
Ngoài ra, còn có thể kể đến áp lực từ các vấn đề văn hóa - xã hội như: ý thức giữ gìn vệ sinh, môi trường của một bộ phân cư dân đô thị còn kém; tình trạng người dân nông thôn đang ồ ạt di cư vào các đô thị, sống tạm bợ trong các căn nhà tạm, thiếu tiện nghi, mất vệ sinh và gây ô nhiễm môi trường công cộng. Hầu hết ở các đô thị, nhất là xung quanh các khu công nghiệp, khu chế xuất, hệ thống các “nhà trọ bình dân” đang mọc lên như nấm, hình thành các khu dân cư lao động theo kiểu “xóm liều” rất phức tạp về an ninh, trật tự và vệ sinh, môi trường. Phần lớn người dân nhập cư từ nông thôn vào thành thị chưa quen với nếp sống văn hóa đô thị, họ vẫn giữ tập quán sinh hoạt tùy tiện, ý thức giữ gìn vệ sinh, môi trường rất kém.
Làm gì để cải thiện môi trường đô thị?
Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường đô thị, Nhà nước và xã hội cần sử dụng đồng bộ các biện pháp khác nhau, huy động được mọi nguồn lực trong nước và sự trợ giúp quốc tế. Ngoài các giải pháp chung, có tính lâu dài, trước mắt, cần tập trung thực hiện một số biện pháp sau:
Một là, trong công tác quy hoạch xây dựng đô thị, ngoài các tiêu chuẩn kinh tế - xã hội phù hợp, phải tính toán, lường hết các yếu tố về môi trường theo hướng phát triển bền vững, tránh tình trạng manh mún, vỡ vụn, hủy hoại môi trường sống. Bảo đảm yêu cầu chung là các không gian đô thị, các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đô thị phải được quy hoạch phù hợp với phát triển tổng thể kinh tế - xã hội - môi trường. Quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở, sân gôn phải tính đến sự mở rộng không gian đô thị trong vòng 20-30 năm, thậm chí 50 năm sau, không để các khu này nằm xen kẽ với khu vực dân cư, trường học, bệnh viện, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Sớm chuyển các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và những cơ sở y tế gây ô nhiễm ra khỏi khu vực dân cư. Ưu tiên phát triển các đô thị sinh thái, thân thiện với môi trường.
Hai là, tiếp tục nghiên cứu, thực hiện có hiệu quả các dự án nâng cao năng lực giao thông đô thị, ưu tiên phát triển hệ thống cầu, đường, bến bãi… nhằm từng bước cải thiện diện tích xây dựng giao thông đô thị; ưu tiên phát triển phương tiện vận tải công cộng, sử dụng nhiên liệu sạch, thân thiện với môi trường, hạn chế phương tiện giao thông cá nhân, nhất là xe mô-tô và xe gắn máy. Từng bước cải thiện hệ thống cấp, thoát nước, thu gom, xử lý rác thải rắn và nâng tỷ lệ cây xanh trong thành phố.
Ba là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong bảo vệ môi trường, gắn công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức của nhân dân với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, hướng tới mục tiêu bảo vệ môi trường trở thành hành động tự giác của mỗi người. Không ngừng nâng cao năng lực quan trắc, dự báo, cảnh báo các nguy cơ về môi trường; tích cực đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra, điều tra, xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường, tranh thủ sự hỗ trợ về vốn, công nghệ và kinh nghiệm của các tổ chức môi trường quốc tế và chính phủ các nước./.
Trần Minh Tơn (theo tapchicongsan.org.vn)
(1) Các số liệu trong bài viết được khai thác từ báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia hằng năm (từ năm 2005 đến năm 2009) của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
|