Tuần -18 - Ngày 29/03/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Lịch sử Kiến trúc
Tháp Po Nagar, Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam
21/04/2020
 

Thông tin chung:
Công trình: Tháp Po Nagar, Nha Trang, Khánh Hòa
Địa điểm: Thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa (12°15′55″B 109°11′44″Đ)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô:
Năm hoàn thành: Thế kỷ 10 -13
Giá trị:

Champa là một quốc gia cổ tồn tại liên tục từ năm 192 đến 1832 với lãnh thổ lúc mở rộng nhất trải dài từ dãy núi Hoành Sơn, Quảng Bình ở phía Bắc cho đến Bình Thuận ở phía Nam; Từ biển Đông cho đến tận miền núi phía Tây của nước Lào ngày nay, thuộc miền Trung Việt Nam. 
Văn hóa Champa tiếp nối từ văn hóa Sa Huỳnh, là văn hóa thuộc giai đoạn Sơ kỳ đồ sắt của cư dân nông nghiệp ven biển miền Trung và miền Nam, có niên đại từ giữa thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên (TCN ) đến đầu Công nguyên, chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong việc xây dựng hệ thống thần quyền trị quốc.
Người Chăm ngoài việc thờ các vị thần bản địa còn thờ các vị thần sơ khai của Hindu giáo và Phật giáo.
Dân tộc chính là tộc người Chăm được chia thành hai nhóm: Chăm ở phía Bắc (bộ tộc Dừa) và Chăm ở phía Nam (bộ tộc Cau). Ngôn ngữ là tiếng Champa bản địa và tiếng Phạn, ngôn ngữ tế lễ của Hindu giáo, Phật giáo Bắc Tông và Jaina giáo. 

Tại đây, văn minh Ấn Độ, du nhập vào theo tôn giáo, được sử dụng rộng rãi: Văn học và điển tích tôn giáo; lịch trong sản xuất nông nghiệp và đời sống; kiến trúc và điêu khắc... Tuy nhiên yếu tố ngoại nhập này đều hòa hợp với yếu tố nội sinh mạnh mẽ của dân tộc Chăm, từ tục thờ mẫu, thờ cúng tổ tiên, chữ viết Champa, kiến trúc và điêu khắc độc đáo, âm nhạc và ca múa sinh động (Thần đạo), đến phong tục cổ truyền như ăn trầu, nhuộm răng đen, hỏa táng và chôn tro xương trong các mộ vò…
Xã hội Champa mang đặc trưng cơ bản của khu vực Đông Nam Á, là xã hội của cư dân nông nghiệp. Quan hệ chủ yếu trong xã hội là quan hệ về ruộng đất, gắn với chế độ sở hữu và các hình thức sử dụng ruộng đất. Trong xã hội, vua có uy quyền tuyệt đối, tiếp đó là tầng lớp quý tộc, lãnh đạo tôn giáo và quan lại trung ương, địa phương. Người dân sống theo từng làng xã, là nơi duy trì mối quan hệ cộng đồng trong đời sống kinh tế và tinh thần.
Champa lần lượt trải qua các vương triều theo cùng một quá trình: Lập nước gắn với các vị vua khởi nghiệp; Xây dựng quốc gia hùng mạnh gắn với chống bành trướng phương Bắc, mở rộng bờ cõi về phía Tây và hội nhập với văn minh từ bên ngoài – Ấn Độ; Nội chiến giành quyền lực giữa các phe phái; Sụp đổ và bị thay thế bởi vương triều kế tiếp:   

Vương quốc Lâm Ấp (năm 192- 757): Đây được coi là giai đoạn khởi đầu cho lịch sử Champa độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của Trung Quốc, gắn liền với sự hấp thu văn minh Ấn Độ. Trong thời gian tồn tại, vương quốc Lâm Ấp trải qua 4 triều đại: 

Triều đại thứ nhất, từ năm 192-336: Vị vua đầu tiên của triều đại có tên Khu Liên, lên ngôi năm 192. Trong giai đoạn này, lãnh thổ Việt bị đô hộ bởi các triều đại phương Bắc, được chia thành Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam (thuộc giai đoạn Bắc thuộc lần hai, năm 43- 541, dưới sự cai trị của nhà Đông Hán, Đông Ngô, Tào Ngụy, Tấn, Tề và Lương). Năm 192, nhân nhà Đông Hán suy yếu, người dân theo Khu Liên nổi dậy lập ra nước Lâm Ấp. Lãnh thổ Lâm Ấp bao gồm cả khu vực thành phố Huế hiện nay, chạy dài cho tới phía Nam của núi Bạch Mã (giữa tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Đà Nẵng). Kinh đô (từ năm 192- 605) là thành Lồi (thuộc thành phố Huế). Thời kỳ đầu, Vương quốc Lâm Ấp chịu ảnh hưởng nhiều của Trung Quốc. Về sau, nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc, nhà nước Lâm Ấp đã thông qua các thương gia, tu sĩ mà tiếp thu văn minh Ấn Độ, bao gồm cả cách thức tổ chức xã hội, văn hóa và tôn giáo. Quốc thư trao đổi của Lâm Ấp với Trung Quốc thời đó đã được viết bằng chữ Phạn thay vì chữ Hán. 

Triều đại thứ hai, từ năm 336-420: Vị vua đầu tiên của triều đại có tên là Phạm Văn. Ông là tể tướng của triều đại trước. Trong giai đoạn này miền Bắc Việt Nam vẫn bị đô hộ bởi các triều đại phương Bắc. Tại đây, văn minh Ấn Độ đã đi vào đời sống như tổ chức hệ thống quan lại, kỹ thuật luyện sắt…; Kinh đô – Thành Lồi tại Huế đã được xây dựng lại.
Với sức mạnh quân sự, nhà vua đã tấn công lên phương Bắc, giết thứ sử nhà Hán, mở rộng lãnh thổ đến tận đèo Ngang (ranh giới của hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay).
Vị vua thứ 3 của triều đại thứ hai, vị vua Lâm Ấp đầu tiên được mô tả trong văn bia, là Phạm Hồ Đạt/ Dharmamaharaja (hiệu là Bhadravarman I), cai trị từ năm 380 đến 413. 
Dưới thời vua Phạm Hồ Đạt, nhiều nhà tu hành Hindu giáo, Phật giáo (Tiểu thừa) từ Ấn Độ sang truyền đạo. Thành Lồi (Huế) vẫn là trung tâm chính trị nhưng đổi tên là Kandapurpura, nghĩa là Phật Bảo Thành. Vua còn cho xây dựng thêm một trung tâm tôn giáo mới tại Amavarati, (thánh địa Mỹ Sơn, một thung lũng cách Đà Nẵng 69 km về phía Tây, thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam). Tại đây, nhiều đền Hindu giáo được xây dựng. Đền thờ thần Shiva (là một trong ba vị thần tối cao: Brahma là Đấng tạo hóa; Vishnu là Đấng bảo hộ; Shiva là Đấng hủy diệt) và linh vật Lingam (là một khối trụ tròn, đặt ở trung tâm một vật thể hình đĩa – Yoni; tổ hợp linh vật Lingam và Yoni tượng trưng cho sự kết hợp sức mạnh nam, nữ và toàn bộ sự tồn tại).

Triều đại thứ ba, từ năm 420-529: Vị vua đầu tiên của triều đại có tên là Văn Địch, xưng hiệu là Phạm Dương Mại I, xuất thân là một người trong hoàng tộc. Năm 443, quân nhà Lưu Tống Trung Quốc (tồn tại 420- 479) đánh Lâm Ấp, phá hủy nhiều đền đài, cướp phá nhiều tượng vàng. Vua Lâm Ấp phải chạy về phía Nam.
 

Triều đại thứ tư, từ năm 529-757: Vị vua đầu tiên của triều đại có tên là Luật Đa La Bật Ma, hiệu là Rudravarman I, xuất thân là một người trong hoàng tộc. Năm 577, Luật Đa La Bật Ma mất, con là Prasastadharma lên kế nghiệp, hiệu Phạm Phạn Chi (Sambhuvarman).
Tại miền Bắc Việt Nam, Lý Bí (Lý Nam Đế, trị vì năm 544- 548), khởi binh chống nhà Lương (tồn tại năm 502- 557) và chính thức thành lập nhà Tiền Lý cùng nước Vạn Xuân vào năm 544. Năm 602, nhà Tùy Trung Quốc (tồn tại năm 581- 619) quay trở lại đánh chiếm miền Bắc Việt Nam (bắt đầu thời Bắc thuộc lấn thứ 3, từ năm 602- 905, dưới sự thống trị của nhà Tùy và nhà Đường).
Nhà Tùy cũng tấn công Lâm Ấp vào năm 598, phá hủy kinh thành Kandapurpura vào năm 605. Vua Phạm Phạn Chi dời kinh đô vào phía Nam, đặt tại Simhapura (làng Trà Kiệu, cạnh sông Thu Bồn, thuộc xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam ngày nay), đặt tên cho vương quốc là Champa, theo một tên một loài hoa đẹp mọc nhiều ở Nam Trung Bộ với ngỏ ý khai sáng thời đại mới (người Việt gọi là hoa sứ hay hoa đại).
Vào khoảng thời gian này, vua Phạm Phạn Chi bắt đầu cho dựng lại thánh địa Mỹ Sơn (đền Bhadresvara) bằng gạch kiên cố, thay thế ngôi đền gỗ đã bị hủy hoại trong chiến tranh.

Sau khoảng 10 năm từ khi mất cố đô Kandapurpura, thừa thế nhà Tùy suy yếu, vua Phạm Phạn Chi phát động một chiến dịch nhằm thu hồi các lãnh địa phương Bắc và thành công. Các vua nối nghiệp vua Phạm Phạn Chi tiếp tục mở rộng lãnh thổ về phía Tây Nam, thuộc vùng đất của vương quốc Khmer.
Thời vua Phạm Phạn Chi được coi là là thời kỳ quá độ giữa vương quốc Lâm Ấp và vương quốc Champa. Văn minh Lâm Ấp giai đoạn này đạt tới đỉnh cao, bắt đầu lan tỏa khắp Đông Nam Á. 
Trong giai đoạn này, văn hóa Ấn Độ trở thành văn hóa chính của vương quốc. Hindu giáo và Phật giáo cùng được truyền bá. Người Chăm đã bắt đầu có các văn bản bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm.

Vương quốc Hoàn Vương (Panduranga, năm 757 – 875): ban đầu là một tiểu quốc phía Nam Lâm Ấp, hình thành từ sự phân rã của vương triều Lâm Ấp, sau đó nổi lên lật đổ vương triều cũ, thành lập vương triều mới.
Miền Bắc Việt Nam giai đoạn này nằm dưới sự thống trị của nhà Tùy và nhà Đường (tồn tại từ năm 618 – 907).
Vương quốc Hoàn Vương trải qua 5 triều đại :

Triều đại thứ nhất, từ năm 757- 774
Vị vua của triều đại có tên là Prithi Indravarman, trị vì một tiểu vương nằm tại phía Nam Lâm Ấp. Sau khi dành quyền lãnh đạo từ vương triều Lâm Ấp, vua là dời kinh đô Simhapura (thành Trà Kiệu) về Virapura (thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận ngày nay). 
Thánh địa tôn giáo của vương quốc cũng dịch chuyển từ Mỹ Sơn về thánh địa Po Nagar (Nha Trang ngày nay) để thờ nữ thần Yan Po Nagar, là thần mẫu của người Chăm.
Năm 774, quân Nam Đảo (người Java và Malaysia) từ ngoài khơi đổ bộ vào chiếm kinh đô Virapura, cướp phá đền Po Nagar. Vua bị chết trong đám loạn quân. 

Triều đại thứ hai, từ năm  774 - 786
Vị vua của triều đại có tên là Satyavarman, thuộc dòng tộc của vương triều trước. Vua tổ chức quân đội tấn công quân Nam Đảo và đánh bại giặc trong một trận thủy chiến. Năm 781, vua cho dựng bia kỷ niệm chiến thắng và xây dựng lại thánh địa Po Nagar bằng gạch, năm 784 thì hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay. 

Triều đại thứ ba, từ năm  786 - 801
Năm 786, vua Satyavarman qua đời, em trai ông có tên là Indravarman I (Nhân Đà La Bạt Ma) lên ngôi.
Năm 787, quân Java từ ngoài khơi lại tràn vào kinh đô Virapura, cướp phá tháp Hòa Lai thờ thần Bhadradhipatisvara  (tại phía Tây thành Virapura, gần Phan Rang ngày nay). Đến năm 799, vua mới đuổi được quân xâm lược, xây lại tháp Hòa Lai với ba tháp mới gọi là Kalan Ba Tháp, thờ các thần Hindu giáo. 

Triều đại thứ tư, từ năm 801 - 817
Năm 801, vua Indravarman I mất, em rể lên ngôi có tên là Deva Rajadhiraja, hiệu là Harivarman I (Kha Lê Bạt Ma). Năm 817, vua cho trùng tu lại tháp Po Nagar và xây dựng thêm hai tháp cạnh tháp chính. Tượng nữ thần Bhagavati, được tạc lại bằng đá hoa cương. Dưới triều vua Deva Rajadhiraja, vương quốc Hoàn Vương hưng thịnh trở lại. Vua tổ chức nhiều cuộc tấn công ra các quốc gia xung quanh, trong đó có các cuộc tấn công lên phía Bắc (châu Ái, châu Hoan – Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay) vào các năm 803, 808 và 809. 

Triều đại thứ năm, từ năm 817 - 875
Năm 817, con trai vua Harivarman I, có hiệu là Vikrantavarman III (Thích Lợi Tì Kiên Đà Bạt Ma) lên kế vị. Vì vua còn nhỏ tuổi nên bên cạnh vua có phụ chính tên là Senapati Par. Ông cho tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Khmer và 
cho xây dựng thêm một số tháp xung quanh tháp chính trong khuôn viên tháp Po Nagar. Mặc dù vậy, trung tâm chính trị và tôn giáo của vương quốc vẫn là kinh đô Virapura. Dưới thời Vikrantavarman III, vương quốc Hoàn Vương là một đất nước phồn thịnh với quân đội hùng mạnh.  

Vương quốc Chiêm Thành (năm 875 - 1471): là triều đại tiếp nối vương quốc Hoàn Vương với kinh đô đặt tại Indrapura (từ năm 875 – 982, làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay). 
Tại miền Bắc Việt Nam, năm 905, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng chính quyền tự chủ của người Việt nhân khi nhà Đường suy yếu, đặt nền móng cho nền độc lập của Việt Nam. Từ đây, nhà nước phong kiến độc lập của Việt Nam trải qua các quốc hiệu và vương triều : Đại Cồ Việt: thời nhà Đinh – nhà Tiền Lê và đầu thời nhà Lý (từ năm 968–1054); Đại Việt: thời nhà Lý – nhà Trần (từ năm 1054–1400); Đại Ngu: thời nhà Hồ (từ năm 1400–1407) ; Đại Việt: thời nhà Hậu Lê- Nhà Tây Sơn và 3 năm đầu thời nhà Nguyễn (từ năm 1428–1804; Việt Nam: thời nhà Nguyễn (từ năm 1804–1839); Đại Nam: thời Nhà Nguyễn (từ năm 1839–1945).

Vương quốc Chiêm Thành trải qua 9 triều đại, kế tục Vương quốc Hoàn Vương, nên được gọi là triều đại thứ 6 đến triều đại thứ 14. Các vị vua đầu tiên của vương quốc Chiêm Thành theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của kinh đô Indrapura (Đồng Dương), một thiền viện Phật giáo (Vihara), bên trong thờ Bồ tát Quán Thế Âm (Avalokiteśvara) đã được xây dựng.
Thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng ở Champa kết thúc vào đầu thế kỷ thứ 10 (năm 925) với sự phục hồi của Hindu giáo, thờ thần 
Shiva. Trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở lại về Mỹ Sơn. Đây là thời kỳ văn minh Champa đạt đến đỉnh cao. Dân số của vương quốc lên đến 0,6 triệu người. 
Vương quốc Chiêm Thành dần suy yếu dưới sức ép của vương quốc Đại Cồ Việt từ phía Bắc và các cuộc chiến tranh với vương quốc Khmer từ phía Tây.
Vào khoảng cuối thế kỷ 10, do kinh đô Indrapura (Đồng Dương) bị quân đội Đại Cồ Việt tấn công phá hủy (năm 982), Chiêm Thành chuyển kinh đô xuống Vijaya ở phía Nam (từ năm 982- 1471, thuộc xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, Bình Định ngày nay, còn có tên là Chà Bàn/Trà Bàn).
Trong 5 thế kỷ tiếp theo, giữa Chiêm Thành và Đại Việt đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh.
Vị vua hùng mạnh cuối cùng của người Chăm là Chế Bồng Nga (Che Bonguar, năm 1360 – 1389, lên ngôi từ năm 1360). Ông tổ chức nhiều cuộc tấn công ra kinh đô Thăng Long và đã chết trong lần tấn công cuối cùng vào năm 1389.
Sau thời kỳ Chế Bồng Nga, Chiêm Thành liên tục bị các vương triều Đại Việt tấn công. Năm 1471, Champa chịu thất bại nặng nề trước Đại Việt và bị mất phần lớn lãnh thổ phía Bắc. Phần lãnh thổ còn lại bị chia nhỏ thành các tiểu quốc, và tiếp tục dần bị các chúa Nguyễn thôn tính. Đến năm 1832, toàn bộ vương quốc chính thức bị sáp nhập vào Việt Nam dưới triều vua Minh Mạng (vị hoàng đế thứ 2 của triều Nguyễn, trị vì năm 1820 – 1841).   


Vương quốc Champa vào khoảng năm 1100.

Màu xanh: Phạm vi vương quốc Đại Việt (kinh đô Đại La - Hà Nội) ; Màu vàng : Vương quốc Champa (kinh đô Indrapura – Đồng Dương); Màu đỏ : Vương quốc Khmer (kinh đô Angkor) 

Đền tháp Champa
Nhóm tháp theo niên đại
Đền tháp Champa theo niên đại được phân thành 23 nhóm tháp. Đền tháp Mỹ Sơn là nhóm đầu tiên với niên đại sớm nhất từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 13.

TT

Tên di tích

Địa điểm

Niên đại

1

Nhóm tháp Mỹ Sơn

xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam

thế kỷ IV - XIII

2

Nhóm tháp Po Sah Inư

phường Phú Hài, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận

thế kỷ VIII

3

Nhóm tháp Mỹ Khánh

xã Phú Diên, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế

thế kỷ VIII

4

Nhóm tháp Hòa Lai

làng Tam Tháp, xã Tân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận

thế kỷ IX

5

Nhóm tháp Po Dam

làng Tuy Tịnh, xã Phong Phú, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận

thế kỷ IX

6

Nhóm tháp Đồng Dương

Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình. tỉnh Quảng nam

thế kỷ IX

7

Nhóm tháp Bằng An

làng Bằng An, xã Điện An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

thế kỷ IX - X

8

Nhóm tháp Khương Mỹ

làng Khương Mỹ, xã Tam Xuân, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam

thế kỷ X

9

Nhóm tháp Po Nagar

thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà

thế kỷ X - XIII

10

Nhóm tháp Chiên Đàn

làng Chiên Đàn, xã Tam An, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam

thế kỷ XI - XII

11

Nhóm tháp Bánh Ít

thôn Đại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định

thế kỷ XI - XII

12

Nhóm tháp Bình Lâm

xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định

thế kỷ XII

13

Nhóm tháp Đôi

thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định

thế kỷ XII

14

Nhóm tháp Nhạn

thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên

thế kỷ XII

15

Nhóm tháp Phú Lốc

xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định

thế kỷ XII

16

Nhóm tháp Cánh Tiên

xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định

thế kỷ XII - XIII

17

Nhóm tháp Thủ Thiện

xã Bình nghi, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định

thế kỷ XII - XIII

18

Nhóm tháp Dương Long

xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định

thế kỷ XII - XIII

19

Nhóm tháp Liễu Cốc

xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế

thế kỷ XIII

20

Nhóm tháp Mẫm

xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định

thế kỷ XIII

21

Nhóm tháp Yang Praong

Bản Đôn, huyện Ea Sup, tỉnh Đắk Lắk

thế kỷ XIII

22

Nhóm tháp Po Klong Garai

phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận

thế kỷ XIII - XIV

23

Nhóm tháp Po Rome

làng Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận

thế kỷ XVII

Đặc trưng chung của các ngôi đền tháp Champa
Đền Champa thường được đặt tại các vị trí thoáng, gò đồi, không gần nơi dân cư sinh sống, xây dựng thành cụm, theo trục Đông – Tây, được thiết kế bằng sự kết hợp các hình thức trừu tượng và hình học cụ thế. Trong ngôi đền Champa có nhiều công trình dạng tháp.
Tháp Champa là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch hoặc có bổ sung một số cấu trúc đá, phía trên dật cấp hoặc thu nhỏ dần vào tạo thành hình tháp.
Mặt bằng tháp đa số là hình vuông. Không gian bên trong hẹp thường có cửa mở về hướng Đông - Tây, các phía còn lại là cửa giả, được bố trí đối xứng với cửa chính. Trần được cấu tạo vòm cuốn.
Gạch xây tháp có màu đỏ sẫm lấy từ đất địa phương. Gạch được nung, vừa đạt được độ cứng nhất định vừa tạo điều kiện cho việc chạm khắc, tương tự như đá sa thạch (là một loại đá được hình thành nhờ sự tích tụ của những đá cát, đá trầm tích, tương đối mềm và dễ gia công). Nghệ nhân chạm khắc trực tiếp lên các bức tường gạch thành phẩm. 
Gạch xây không có mạch vữa, được liên kết với nhau bằng một loại keo đặc biệt. Có giả thuyết cho rằng đó là  loại keo được tinh chế từ một loại thực vật tại địa phương. Giả thuyết khác là vữa xây làm từ đất sét tạo ra chính viên gạch. Giả thuyết này được củng cố sau khi thí nghiệm hóa học đã không tìm ra dấu vết của bất kỳ chất hữu cơ nào từ giữa các viên gach, mà tìm thấy các khoáng chất tương tự như các chất có trong lõi viên gạch.
Nghệ thuật chạm khắc của các ngôi đền tháp Champa là tiêu biểu cho Di sản nghệ thuật Champa. Các tác phẩm điêu khắc bằng gạch, đá sa thạch rất công phu với các trang trí hình hoa lá, chim, thú, vũ nữ, thần thánh (Hindu giáo, Phật giáo, tôn giáo bản địa) thể hiện trên mặt tường ngoài của tháp. Phổ biến và cũng hấp dẫn nhất trong nghệ thuật Champa là các vũ nữ (apsara, là một dạng tiên nữ múa hát trong các nghi lễ Hindu giáo và thần thoại Phật giáo).

Phong cách nghệ thuật của các đền tháp Champa
Người ta cho rằng, di tích đền tháp Champa tại Việt Nam có tới 7 phong cách nghệ thuật :
Phong cách Mỹ Sơn E11 (Style of Mỹ Sơn E1) hay phong cách Cổ đại : có niên đại thế kỷ 7 – 8, được khái quát hóa từ đền tháp Mỹ Sơn E1 tại Di sản Thánh địa Mỹ Sơn. Phong cách này được thể hiện đầy đủ nhất tai ngôi tháp Mỹ Sơn E1.
Phong cách Hoà Lai (Style of Hoa Lai) : có niên đại cuối thế kỷ 8 - đầu thế kỷ 9, được khái quát hoá từ đền tháp Hoà Lai. 
Phong cách Đồng Dương (Đồng Dương style): có niên đại cuối thế kỷ 9 - đầu thế kỷ 10, được khái quát hoá từ đền tháp Đồng Dương. 
Phong cách Mỹ Sơn A1 (Mỹ Sơn A1 style): có niên đại thế kỷ 10, được khái quát hoá từ tháp Mỹ Sơn A1, thuộc  Di sản Thánh địa Mỹ Sơn. Phong cách này thể hiện đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất là ở ngôi tháp Mỹ Sơn A1.
Phong cách chuyển tiếp Mỹ Sơn A1- Bình Định: có niên đại đầu thế kỷ 11 - giữa thế kỷ 12.
Phong cách Bình Định (style of Bình Định): có niên đại cuối thế kỷ 11 - đầu thế kỷ 14.
Phong cách muộn : có niên đại từ đầu thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 17.

Tháp Po Nagar
Trong 23 nhóm tháp của Đền tháp Champa, nhóm tháp Po Nagar đứng thứ 9.
Tháp Po Nagar (Yang Po Inư Nagar hay Yang Pô Ana Gar) là ngôi đền Champa nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ cao khoảng 10-12m so với mực nước biển, ở cửa sông Cái (sông Nha Trang) tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Inư, Ana trong tiếng Chăm có nghĩa là Mẹ.
Tháp Po Nagar là một trong những thánh đường trung tâm của các vương triều Champa từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 15). Công trình được xây dựng từ khi hình thành Vương quốc Hoàn Vương (Panduranga, năm 757 – 875, tồn tại qua 5 triều đại). Ngay từ triều đại thứ nhất (757- 774), khi Thánh địa tôn giáo của vương quốc  dịch chuyển từ Mỹ Sơn về thánh địa Po Nagar (Nha Trang ngày nay), tháp Po Nagar đã được xây dựng để thờ nữ vương Jagadharma (Prakasadharma, vị vua thuộc triều đại thứ 4 của Vương Quốc Lâm Ấp, trị vì từ năm 646- 653). Tháp được dựng bằng gỗ.   
Năm 774, quân Nam Đảo (người Java và Malaysia) từ ngoài khơi đổ bộ vào chiếm kinh đô Virapura, phá hủy đền Po Nagar.
Năm 784, sau khi đánh thắng giặc Nam Đảo, vua triều đại thứ hai (774- 786) Vương quốc Hoàn Vương đã cho xây dựng lại thánh địa Po Nagar bằng gạch, tồn tại cho tới ngày nay. 
Năm 817, dưới thời của vua Hoàn Vương triều đại thứ tư (801 - 817) và thứ năm (817 - 875), tháp Po Nagar được trung tu lại và xây dựng thêm các tháp khác cạnh tháp chính trong khuôn viên tháp. Đến thế thế kỷ thứ 10, quần thể tháp Po Nagar vẫn tiếp tục được xây dựng bổ sung một số tháp nhỏ khác. Tháp chính được xây dựng lại vào thế kỷ 11. 

Về nữ thần Yan Po Nagar có nhiều truyền thuyết.
Theo Hindu giáo, nữ thần được thờ trong đền là Parvati, hiện thân của nữ thần sáng thế tối cao và là vợ của thần Shiva. Tượng thờ được bố cục và tạc theo Hindu giáo gắn với linh vật Linga - Yoni. Về sau, nữ thần Hindu giáo được chuyển hóa thành nữ thần bản địa Yan Po Nagar.
Theo tín ngưỡng của người Chăm, nữ thần Yan Po Nagar là nữ thần biển với nhiều phép thuật. Bà giáng trần, dùng phép biến hóa ra cung điện nguy nga, lúa gạo, trầm hương. Trong kiếp trần thế bà trở thành nữ vương Jagadharma, có nhiều hầu nam trong hậu cung và sinh ra nhiều con. Các con bà sau này đều thành thần, được người dân tôn thờ.
Người Việt sau khi chinh phục Champa cũng đã Việt hóa sự tích về bà Yan Po Nagar gắn liền với linh vật trầm hương, thể hiện sự giao lưu và bồi đắp văn hóa của hai dân tộc Việt và Champa.
Nhà Nguyễn xếp bà Yan Po Nagar vào bậc Thượng đẳng thần (Thần hoàng hay Phúc thần theo Thần đạo Việt Nam được phân thành ba hạng: Thượng đẳng thần, gồm thiên thần như Tứ bất tử...,nhân thần như Trần Hưng Đạo..; Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần). Việc thờ cúng Thiên Y A Na có nhiều yếu tố hòa hợp với đạo Mẫu Tam phủ. Nữ thần Yan Po Nagar trở thành Thiên Y A Na hay Bà Thánh Mẫu Chúa Ngọc (Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Xứ), được người Chăm và cả người Việt tôn thờ. 

Tháp Po Nagar được xây dựng theo Phong cách Hoà Lai (Style of Hoa Lai), có niên đại cuối thế kỷ 8 - đầu thế kỷ 9, được khái quát hoá từ đền tháp Hoà Lai (Ninh Hải, Ninh Thuận).
Tháp Po Nagar cũng tương tự như các quần thể đền tháp Champar điển khác (có thể thấy ngay tại nhóm tháp Mỹ Sơn, Quảng Nam, là tháp Champa được xây dựng sớm nhất, vào thế kỷ 4 – 8) với đặc điểm: bố cục theo hướng Đông Tây, có tường bao quanh tạo thành một khu vực hình vuông; có một Tháp cổng ra vào (đặt tại giữa của đoạn tường phía Đông hoặc Tây, phụ thuộc vào hướng đền); tiếp đến là tòa Bái đường, là một ngôi nhà dài, nơi chuẩn bị nghi lễ (trong một số trường hợp nhà lại nằm bên ngoài khu vực đền, song vẫn trên trục chính của đền); trung tâm của quần thể là Tháp chính, nơi đặt linh vật thờ thần chính; nhiều quần thể đền có hai Tháp chính; xung quanh các Tháp chính có các Tháp phụ là nơi thờ hoặc làm kho đồ lễ, bếp nấu đồ cúng tế, kho sách… 

Quần thể đền Po Nagar nằm trên đồi thấp, theo hướng từ Đông sang Tây gồm:
Bái đường, Tháp cổng, Tháp chính phía Bắc, Tháp chính phía Nam và các tháp phụ trợ khác.  
Các công trình trong quần thể được phân bố theo 3 bậc nền : Bậc nền dưới cùng, Bậc nền giữa, Bậc nền trên cùng. 


Tháp Po Nagar, Nha Trang, Khánh Hòa


Sơ đồ mặt bằng, mặt cắt ngang
Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa


Phối cảnh mặt phía Đông Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa


Phối cảnh mặt phía Bắc Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa


Phối cảnh mặt phía Tây Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa

Tòa Bái đường
Bái đường (Meditation hall) được phục dựng lại vào thế kỷ 11, nằm trên bậc nền giữa. Bậc nền dưới cùng là khoảng sân, phía trước đền. Từ đây có bậc thang bằng đá lên bậc nền giữa.
Bái đường là nơi sắp xếp lễ vật và thực hiện các nghi thức hành lễ (nhảy múa, chơi nhạc).
Công trình dạng nhà dài với mặt bằng hình chữ nhật, nằm trên một nền bằng gạch cao hơn 1m, hiện chỉ còn tàn tích nền với hai dãy cột chính bằng gạch hình bát giác, mỗi bên 5 cột có đường kính hơn 1m và cao hơn 3m. Ở hai bên các dãy cột lớn có 12 cột nhỏ và thấp hơn. Dựa vào cấu trúc cột này, người ta cho rằng đây vốn là một tòa nhà rộng lớn.
Từ bậc nền giữa, có một dãy bậc thang bằng gạch dẫn lên bậc nền trên cùng nơi bố trí khu vực đền. 




Tàn tích cột còn lại của tòa Bái đường, Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa

Tháp cổng và hệ thống tường bao quanh
Toàn bộ khu vực đền đặt tại bậc nền trên cùng, có mặt bằng hình vuông được giới hạn bởi các bức tường đá. Hiện chỉ còn tàn tích một số đoạn tường phía Tây và Nam.
Chính giữa đoạn tường phía Đông là Tháp cổng (gopura/ gatehouse), hiện cũng chỉ còn tàn tích nền. 

Tháp chính phía Bắc
Tháp chính (kalan/sanctuarya) tại quần thể đền Po Nagar gồm hai tháp: Tháp chính phía Bắc và Tháp chính phía Nam.
Tháp chính phía Bắc là tháp lớn nhất, cao khoảng 23m, đặt tại trung tâm của quần thể, nằm trên trục chính với tòa Bái đường.
Ban đầu, theo Hindu giáo, đây là đền thờ nữ thần thần Parvati. Sau này, theo tín ngưỡng địa phương, đây là nơi thờ là nữ thần Yan Po Nagar hay Thiên Y A Na/Bà thánh mẫu Chúa Ngọc.
Tương tự như các ngôi đền Champa khác, tháp có mặt bằng hình vuông gồm 3 phần: đế tháp, thân tháp và mái tháp.
Đế Tháp chính phía Bắc được phân chia bởi các trụ, kết hợp với các vòm cong, tạo thành hình tượng hoa sen đỡ thân tháp.
Thân Tháp chính phía Bắc là một khối lập phương. Bề mặt tháp không phẳng mà có các trụ áp tường, dạng trụ kép, phân bố 1 trụ đôi tại góc tháp và 4 trụ đôi tại mặt tháp. Phía trên các trụ là các gờ tường nhô dần ra tạo thành diềm mái.
3 mặt Tây, Bắc, Nam của thân tháp có các cửa giả tạo bởi các mặt tường đắp nhô dần ra với dạng hình tháp. Bên trong mỗi ô cửa giả có những hình tam giác nhỏ khoét sâu vào tường. Đây là nơi đặt lễ vật, đèn dầu để thờ (sau này do thắp hương nên khói đã làm đen các bức tường).
Tại mặt phía Đông của thân tháp có một cửa ra vào, kéo dài như một khối tiền sảnh với hình dáng một ngôi tháp nhỏ mô phỏng theo hình dáng tháp chính. Cửa vào khối tiền sảnh được xây dựng bằng đá, gồm 2 trụ đứng và một dầm ngang. 2 trụ đứng còn là hai tấm bia ký khắ chữ Sancrit (Phạn) và chữ Chăm cổ. Phía trên cửa có một bức phù điêu đá hình lá đề miêu tả nữ thần Durga (vợ thần Shiva) 4 tay đang nhảy múa; chân đặt trên lưng bò thần Nandin (vật cưỡi của thần Shiva). Đây được đánh giá là một trong những bức phù điêu đẹp nhất của nghệ thuật Champa còn lưu giữ được tại Việt Nam.
Mái Tháp chính phía Bắc có bố cục tương tự như mái tháp Hòa Lai (Ninh Hải, Ninh Thuận): Nằm trong một khối lập phương với 3 tầng mái,
nhỏ dần về phía trên; trang trí tầng mái trên được mô phỏng theo tầng mái dưới ; mỗi góc của mỗi tầng mái đặt một tháp có hình dáng như của tháp chính thu nhỏ; tại các diềm phân cách thân và các tầng mái, khối tháp đều hơi choãi ra phía ngoài, là không gian để đặt các tượng trang trí ; trên đỉnh mái tháp là một khối chóp.


Phối cảnh mặt phía Tây Tháp chính phía Bắc (bên trái ảnh) và Tháp chính phía Nam (bên phải ảnh),
Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa


Trang trí trên bệ Tháp chính phía Bắc, Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa


Trang trí trụ đôi tại thân Tháp chính phía Bắc,
Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa


Lối vào Tháp chính phía Bắc,
Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa


Phù điêu bên trên lối vào Tháp chính phía Bắc, Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa


Phối cảnh phần mái Tháp chính phía Bắc, Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa

Bên trong Tháp chính phía Bắc đặt tượng thờ nữ thần Yan Po Nagar hay thánh mẫu Thiên Y A Na/ Bà Thánh Mẫu Chúa Ngọc. Tượng nữ thần cao 2,6m, được tạc bằng đá hoa cương màu đen (ban đầu được tạc bằng vàng) ngồi trên bệ đá hình đài sen, lưng tựa vào phiến đá lớn hình lá bồ đề. Tượng có 4 đôi tay cầm các linh vật khác nhau và đôi tay thứ 5 để xuôi trên đầu gối, bàn tay trái úp, bàn tay phải mở rộng. Tượng được cho thể hiện hình ảnh của một người mẹ đã nhiều lần sinh nở, người Mẹ của xứ sở. Đây được cho là một trong những kiệt tác về điêu khắc Champa, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật tượng tròn và chạm nổi. Người Pháp đã lấy mất đầu tượng đá, nay chỉ còn đầu tượng phục chế lại bằng xi măng. Trên thân và mái Tháp chính phía Bắc còn có nhiều tượng và phù điêu bằng đất nung và đá, trong đó có hình tượng thần Po Nagar và một số vị thần Hinhdu giáo khác, các tiên nữ, vũ công, người chèo thuyền, đi săn, loài chim như thiên nga, các loài thú như voi, sư tử, dê, nai 




Tượng nữ thần Yan Po Nagar hay thánh mẫu Thiên Y A Na, Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa

Tháp chính phía Nam
Tháp chính phía Nam, nhỏ hơn so với Tháp chính phía Bắc, cao 18m, được xây dựng vào thế kỷ 13.
Ban đầu, theo Hindu giáo, đây là nơi thờ thần Shiva. Sau này, theo tính ngưỡng địa phương, đây là nơi thờ Đức ông.
Tháp chính phía Nam có cấu trúc mặt bằng, lối vào, đế và thân tháp tương tự như Tháp chính phía Bắc. Riêng phần mái không theo tầng mái mà là dạng chóp. Hiện phần mái Tháp chính phía Nam mới phục dựng lại được phần thô, không có trang trí trên bề mặt mái. Trên đỉnh mái đặt một trụ linga.
Cửa ra vào của Tháp chính phía Nam có quy mô nhỏ hơn và không có bức phù điêu trang trí trên cửa. 


Mặt phía Đông Tháp chính phía Nam (bên trái ảnh) và Tháp chính phía Bắc (bên phải ảnh),
Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa

Tháp phụ phía Tây
Trong các ngôi đền Hindu giáo, xung quanh tháp chính thường có tháp phụ nhỏ xung quanh. Có tháp là đền thờ  các vị thần Hindu giáo, có tháp là nơi để chứa các vật có giá trị thuộc về vị thần hoặc để nấu ăn cúng tế. Quần thể đền Po Nagar hiện còn lưu giữ được 2 Tháp phụ (Tháp phụ phía Tây và Tháp phụ phía Nam) cùng tàn tích móng của các tháp phụ khác.
Tháp phụ phía Tây cao 9m, là ngôi tháp còn khá nguyên vẹn về kiến trúc và trang trí. Tháp được xây dựng vào năm 817, song được trùng tu nhiều lần với lần trùng tu cuối vào khoảng thế kỷ 13.
Theo Hindu giáo đây là tháp thờ thần Ganesha, vị thần đầu voi mình người, con của thần Shiva, biểu tượng của tài trí, hạnh phúc và thành công. Linh vật thờ trong tháp là biểu tượng Linga và Yoni;
Theo tín ngưỡng của người dân địa phương, tháp thờ Cô, Cậu con của thánh Mẫu Thiên Y A Na.
Tháp có mặt bằng hình vuông.
Bệ tháp có cấu trúc như Tháp chính phía Bắc.
Thân tháp là một khối lập phương. Bề mặt tháp không phẳng mà có các trụ áp tường, dạng trụ kép, phân bố 1 trụ đôi tại góc tháp và 4 trụ đôi tại mặt tháp. Phía trên các trụ là các gờ tường nhô dần ra tạo thành diềm mái.Trên tường của thân tháp có hình điêu khắc thần chim, thần rắn, tiên nữ, sư tử.Thân tháp cũng có 3 ô cửa giả tại 3 mặt Bắc, Nam và Tây. Trên mỗi ô cửa giả đều có hoa văn trang trí hình các linh vật, được chạm trổ tinh xảo trên nền gạch nung. Trên ô cửa giả phía Nam là hình ảnh chim thần Garuda; ô cửa giả phía Bắc là hình ảnh thần Kala – vị thần thời gian; ô cửa giả phía Tây là hình tượng nữ thần cưỡi voi. Cửa vào đặt tại phía Đông của thân tháp.
Mái của tháp phụ có hình dáng như một khối tháp nhỏ đặt lên trên khối tháp to phía dưới với phần thân gồm các trụ tường và các gờ tường nhô dần ra phía ngoài để đỡ mái hình yên ngựa. 4 góc của mái tháp là 4 tháp nhỏ. 


Phối cảnh Tháp phụ phía Tây,
Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa

Tháp phụ phía Nam:
Đây là ngôi tháp có quy mô nhỏ nhất, cao 7,1m. Hình dáng bên ngoài tháp đã bị hư hại nhiều, chưa được phục dựng lại.
Tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ 11 – 12.
Theo Hindu giáo, đây là tháp thờ thần Skandha, con của thần Shiva, tượng trưng cho sức mạnh, chiến tranh.
Theo tín ngưỡng địa phương, đây là tháp thờ ông bà là cha mẹ nuôi của thánh Mẫu Thiên Y A Na. 
Đế và thân tháp đơn giản. Thân tháp thu nhỏ dần lại để đỡ mái dạng hình mui thuyền hay hình yên ngựa. 


Phối cảnh Tháp phụ phía Nam (bên phải ảnh) Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa

Ngoài ra, tại Quần thể đền Po Nagar còn có các tháp phụ khác, hiện chỉ còn tàn tích nền móng. Người ta cho rằng, khi khảo sát Quần thể đền vào đầu thế kỷ 20, người Pháp đã phát hiện một kho chứa đồ của một tháp phụ và đã mang đi hết các đồ tế lễ bằng vàng và bạc trong đó. 

Tháp Po Nagar còn là nơi lưu giữ nhiều bia ký cổ của người Champa, từ thế kỷ thứ 8 - 13. Trên mặt các bia ghi lại các sự kiện tháp bị giặc biển đốt phá năm 774 và việc xây dựng tượng Sri Satya Mukhalinga (linh vật linga có điêu khắc mặt thần hay mặt vua Champa); ghi lại công lao xây dựng tháp của các tiên vương; ghi việc dựng pho tượng Po Nagar bằng vàng vào năm 918 và pho tượng này bị người Khmer cướp đi, sau đó được thay thế bằng tượng đá vào năm 905; bia đá ở hai bên cửa Tháp chính phía Bắc ghi lại các lễ vật dâng cúng chư thần như: cúng ruộng; 55 nô lệ; sách vàng và bạc; bình vàng và bạc; bia dựng năm 1064 ghi lại việc xây dựng tháp cổng rất tốn kém…Ngoài ra tại đây cũng có một số bia vào thế kỷ 19, thời Nguyễn, trong đó có ghi lại truyền thuyết Thiên Y A Na Thánh Mẫu của người Việt. 

Lễ hội Tháp Bà diễn ra từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 3 âm lịch hàng năm.
Tháp Po Nagar, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa được đánh giá là một trong những di tích tháp Champa cổ và đẹp nhất còn tồn tại, là một trong công trình kiến trúc, nghệ thuật và văn hóa tiêu biểu của các đền tháp Champa, Việt Nam vào thế kỷ 10- 13.  

Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1p_Po_Nagar
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%C3%AAn_Y_A_Na
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0n_V%C6%B0%C6%A1ng
https://ditichkhanhhoa.org.vn/index.php/2018/04/08/thap-ba-ponagar-nha-trang/

Di sản thế giới Thánh địa Mỹ Sơn (My Son Sanctuary), Duy Xuyên, Quảng Nam xem tại đây
- Xem bài viết về Tháp Hòa Lai, Thuận Bắc, Ninh Thuận tại đây
- Xem bài viết về Tháp Nhạn, Tuy Hòa, Phú Yên tại đây
- Xem bài viết về Tháp Po Klong Garai, Phan Rang – Tháp Chàm, Ninh Thuận tại đây
- Xem bài viết về Tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định

Xem các bài viết về chùa Việt Nam tại đây 

Xem các bài viết về đình, đền Việt Nam tại đây

Xem các bài viết về Di sản văn hóa thế giới tại đây

    
Cập nhật ( 21/04/2020 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:
“Đặt ra kế hoạch thật tốt, thật sát là rất cần, nhưng đó chỉ là bước đầu, kế hoạch 10 phần thì biện pháp cụ thể phải 20 phần, chỉ đạo sát sao phải là 30 phần- có như thế mới hoàn thành kế hoạch”
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com