Trên mười thế kỷ đã qua, Hà Nội thực sự là kinh thành với đặc điểm hiếm có của một thành phố sông hồ. Tổ tiên người Việt đã truyềnlại cho đời sau những bài học qúy giá trong xây dựng đất nước mang sắc thái văn minh gắn với giá trị trường tồn của những vùng sông nước. Hệ thống sông ngòi Việt Nam không chỉ cung cấp nước cho phát triển nông nghiệp, đảm bảo đời sống dân sinh mà còn hình thành mạng giao thông liên hoàn, nối liền các căn cứ bảo vệ an ninh quốc gia; trong đó, Hà Nội là một đầu mối quan trọng.
Cho đến nay, tư liệu cổ ít thấy tài liệu về sông ngòi. Hạn chế này khiến nhiều công trình nghiên cứu cội nguồn, phát triển kinh tế xã hội khó tìm được những kết nối, giải thích sâu sắc. Mới đây, công trình nghiên cứu về địa dư sông ngòi vào thời Tự Đức (1874) của tác giả Trần Lưu Tuệ đã giúp độc giả có một tầm nhìn khái quát hơn về hệ thống sông ngòi. Là kết quả khảo sát nhiều năm từ khởi nguồn cho đến hạ lưu của các dòng sôngthuộc địa dư các tỉnh Hà Nội, Nam Định, Bắc Ninh, Sơn Tây, Ninh Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Nguyên, Quảng Yên, Cao Bằng, Lạng Sơn và Tuyên Quang, được coi là những nơi quan yếu trong địa dư Đông Dương, công trình đã nhấn mạnh đến hệ thống sông ngòi liên quan đến địa bàn Hà Nội ngày nay. Bài viết trích dẫnnhững sông ngòi, nguồn lạch thuộc địa bàn từ bản dịch chữ Hán của dòng họ Trần Lưu
Sông ngòi Hà Nội - Mạng giao thông sống động ở vùng Bắc Bộ
Thăng Long- Hà Nội xưa nằm trên miền đất trũng của đồng bằng, là vùng đô thị sông hồ. Theo TrầnLưu Huệ, cuối thế kỷ XIX địa hạt thuộc địa dư Hà Nội có một hệ thống sông ngòi dày dặc, gồm nhiều dòng chảy tạo thành những trục giao thông quan trọng kết nối toàn vùng và các tỉnh Bắc Bộ. Đó là mạng lưới của dòng chảy Nhĩ Hà, Mang Giang,Nhuệ Giang, Hát Giang, Tô Lịch, Kim Ngưu… và đặc biệt là Hát Giang gắn vớinhiều chứng tích cổ xưa (Trần Lưu Chung 2012).
Dòng Nhĩ Hà (sông Mẹ) nhìn giống như một vành tai. Khởinguồn từ phía Bạch Hạc (Sơn Tây cũ) nơi đón nhận dòng Lô giang và Lôi giang đầunguồn ở tỉnh Tuyên Quang; sông Mẹ nối tiếp dòng chảy của Đà giang, sông Lô vàsông Thao cùng hợp lưu ở thượng nguồn; phía hạ nguồn, sông hợp với Vị Hoàng củaNam Định chảy đến Xuân Trường thì phân nhánh. Nhánh Đông chảy đến cửa Ba Lạt,cửa Lân và phía Tây là cửa biển Lịch.
Ở phía thượng lưu, Nhĩ Hà tiếp giáp với Đan Phượng (Sơn Tây) và Lô Giang thuộc châu Hương Lang;dòng chảy đi theo các huyện, hạt Từ Liêm, Vĩnh Thuận, Thọ Xương, Thanh Trì,Thượng Phúc, Phú Xuyên, Nam Xương; phía tả ngạn là huyện Yên Lãng (Sơn Tây),tiếp đó là Đông Ngàn, Gia Lâm, Văn Giang thuộc tỉnh Bắc Ninh và các huyện ĐôngAn, Kim Động, Tiên Lữ, Diên Hà, Hưng Nhân của tỉnh Hưng Yên
Về phía hạ lưu, Nhĩ Hà có nhánh Thanh Hương chảy từ Hoàng Giang qua phủ Kiến Xương và các huyện VũThư, Thanh Quan, Trực Định đến cửa Trà Lý; nhánh phải chảy qua huyện Mỹ Lộc rồitheo hướng Tây Nam đến Vụ Bản, Thượng Nguyên, Đại Yên, Nam Trực rồi đổ ra cửabiển Liêu. Phía Tây dòng chảy có nhánh từ Ý Yên chảy qua các huyện Phong Doanh,Đại Yên và Gia Viễn, Yên Khánh của tỉnh Ninh Bình; sau đó đổ vào biển Liêu. MặtĐông của sông có nhánh chảy qua cửa Lọc (Hưng Yên); nhánh khác từ huyện QuỳnhLưu chảy qua huyện hạt Đông Quan, Phụ Dực, Thanh Quan, Thụy Anh rồi ra cửa biểnDiêm Hộ.
Cùng với dòng sông Mẹ, hệ thống có nhiều nhánh sôngchảy qua nhừng vùng trù phú của đồng bằng BắcBộ, các dòng sông chính của Hà Nội cũng liên thông mật thiết đối với các tỉnhliền kề. Dòng Mang Giang bắt nguồn từthượng lưu Nhĩ Hà; theo hướng sông Mẹ, Nam Giang chảy qua Nam Xương đến BộcGiang (tục goi là Lung Lạp) rồi xuôi xuống các huyện Thanh Liêm, Duy Tiên, KimBảng rồi hợp lưu với Châu Giang, Hát Giang để chảy vào sông Thanh Quyết (Ninh Bình). Qua Kim Sơn, dòng chảy hợp với Hoạch Giang, Hồ Giang và Càn Giang rồi thoát ra cửa biển Chính Đại.
Phía dưới sông Mang, Hát Giang là dòng sông Đục; nối tiếp thượng lưu Nhĩ Hà ở huyện Yên Sơn; Đan Phượng (Sơn Tây) và Lô Giang thuộc châu Hương Lang. Khởi nguồn từ Hát Môn thuộc huyện Phúc Thọ, sông Hát chảy qua Đại Phùng xuống huyện Chương Đức đi quacác huyện Đan Phượng, Yên Lạc, Yên Sơn;Từ Liêm, Thanh Oai. Đến ngã ba Thế củaChương Đức, dòng chảy chuyển hướng về Tây, hợp với sông Bùi chảy đến Phương Đình thuộc Sơn Lãng phủ Ứng Hòa. Từ Phương Đình sông chảy qua huyện Hoài An đến Lạc Trường, Phù Đạm (huyện Kim Bảng) sông hợp với Châu Giang. Khi đến Gia Viễn (Ninh Bình) dòng chảy hợp với sông Thanh Quyết, qua huyện Kim Sơn hợp lưu với sông Hoạch chảy vào Càn Giang rồi đổ ra cửa biển Chính Đại.
Theo hướng Hát Giang, có một dòng chảy đầu nhọn gọi là Nhuệ Giang. Nhuệ Giang bắt nguồn từ huyện Từ Liêm, đi qua các huyện Thanh Oai, Thanh Trì, Thượng Phúc, đến Phú Xuyên hợp với Ngưu Giang, Sa Giang, rồi chuyển hướng Nam đến sông Mang thuộc Trác Bút (huyện Nam Xương) để đổ vào Nhĩ Hà. Nối với Nhuệ Giang là sông Tô Lịch. Tô Lịch giang phát nguồn từ Nhĩ Hà, tả ngạn phân nhánh chảy vào Thọ Xương; sôngchảy qua các huyện Vĩnh Thuận, Từ Liêm, Thanh Trì đến Cổ Hiền (huyện ThượngPhúc) sông hợp với Nhuệ giang, sông Ngưu rồi hợp với Mang giang để đến Nhĩ Hà.
Một dòng chảy khác gắnvới nhiều truyền thuyết là sông Kim Ngưu. Tương truyền ở núi Lạn Kha (huyện TiênDu, Bắc Ninh) có con trâu vàng từ trong hang núi ra ẩn ở Hồ Tây, những vết chân trâu chạy qua sau biến thành sông. Kim Ngưu bắt nguồn từ thành Nam Hà Nội chả yqua Thọ Xương, Thanh Trì, Thượng Phúc đến Phú Xuyên hợp với sông Nhuệ qua ngã ba Lương rồi cũng đổ vào dòng Mang giang (Trần Lưu Chung 2012).
Nét riêng gắn với lịch sử cội nguồn trên những dòng sông cổ
Nghiên cứu địa lý lịch sử cội nguồn, sử gia Giáo sư Trần Quốc Vượng từng chỉ ra, khoảng thế kỷ VI-VII TCN có 3 khu vực quan trọng là Văn Lang (hay Mê Linh), Chu Diên và Tây Vu đều nằm trong vùng Hà Nội. Đây được cho là nơi chứng kiến toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển của nền văn minh sông Hồng, một nền văn minh Việt cổ. Theo ông, Ba Vì là núi thiêng, là “Ôlanhpơ” của huyền thoại Việt Nam. Đó là đất Tổ, đất đai của các vua Hùng mà dòng dõi sau này là con cháu của Hai Bà Trưng. Chu Diên ở dưới Mê Linh, nằm bên bờ sông Hát (khoảng từ Đan Phượng, Hoài Đức trở xuống), đây là vùng lãnh thổ của vị Lạc tướng thân sinh Thi Sách, chồng BàTrưng Trắc (Trần Quốc Vượng 2010 trang 60).
Hát Giang là dòngsông cổ gắn với những chiến tích lịch sử và những trận chiến hào hùng chống quân xâm lược trong cuộc khởi nghĩa giành độc lập của Hai Bà Trưng. Nằm ở tả ngạn sông Hát (nay gọi là sông Đáy), tại làng Do Lộ, Hát Giang xưa phân thành 3 nhánh, trên cổng đình, tiền nhân đã lưu lại đôi câu đối “ Nam Thiên thất nhị từ chi nhất lưu Hùng linh tích bảo phong lịch đại ánh Long chương” và” Hát Giang cổ tam lộ chi phân thắng địa kỳ quan hoa biểu thiên niên lưu Hồng Lạc” được Viện Hán Nôm dịch là: Đây là một trong 72 ngôi đền ở trời Nam lưu lại dấu thiêng của vua Hùng, nhiều đời phong tặng rạng rỡ điển chương; và Đây là nơi phân ra 3 nhánh sông Hát xưa, đất đẹp kỳ quan, rạng rỡ nghìn năm lưu dấu Hồng Lạc
Tại Do Lộ, một nhánh của Hát giang chảy qua Thắng Lãm rồi về Bảy Giỏ để hợp với Nhuệ giang.Tương truyền khi rời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, Vua Lý Công Uẩn đã theo đường thủy qua sông Nhuệ và Tô Lịch đến kinh thành. Rồi để tạ ơn Đức Phật, Người lại ngược theo hướng này đến động Hương Tích. Trên đường đi, phát hiện thắng cảnh kỳ thú Thắng Nghiêm (trang Khúc Thủy), Người đã dừng chân và sau đó cho tu bổ lại ngôi chùa để thành nơi vãn cảnh của Hoàng tộc khi về Thăng Long.
Trong vùng, từ thượng chi Ao Vạc đến hạ chi Bảy Giỏ; tại 4 xã, phường Yên Nghĩa, Phú Lãm, Phú Lương và Cự Khê ngày nay, các nhà nghiên cứu đã ghi nhận được 32 di tích lịchsử văn hóa xếp hạng; trong đó, có 30 ở cấp quốc gia. Có lẽ chưa nơi nào trên đất nước ta lại có mật độ di tích văn hóa lịch sử quốc gia cao như ở vùng này. Đáng chú ý, tại làng Thanh Lãm có ngôi cổ miếu Linh Điền thờ Bà Man Thiện mẹ đẻ của 2 Bà Trưng; miếu và mộ Bà Lý Thị Ngọc Ba là mẹ chồng của Trưng Trắc lẫn Trưng Nhị. Tại đây còn giữ được khu mộ bà Phùng Thị Chính; đền thờ Đinh Cống và Đinh Lượng là những tướng giỏi, lập nhiều chiến công hiển hách trong cuộc khởi nghĩa giành quyền tự chủ của đất nước trong những năm đầu công nguyên ( Lê Thành2009)
Để làm rõ thêm nhận xét của Giáo sư Trần Quốc Vượng, gần đây trong bộ sách “Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh Việt cổ”, các nhà nghiên cứu ở Trung tâm văn hóa người cao tuổi Việt Nam đã phân tích và đưa ra nhiều nội dung đáng quan tâm về chứng tích hiện còn của vùng địa dư hai bên bờ sông Hát cổ. Với địa hình nằm trên dải đứt gẫy sông Hồng cắm sâu trong lòng đất ,vùng ven sông Hát nằm gần giải bán sơn địa, sau lưng là nguồn lâm sản phong phú, mặt trước là đồng bằng có hệ thốngsông ngòi, thuận lợi cho nghề trồng lúa nước và đánh bắt thủy sản. Khảo sát điền dã trên chiều dài hơn 30 km ở phía thượng nguồn từ Hát Môn cho đến khu vực Thanh Oai, các nhà nghiên cứu đã thu nhận được nhiều thông tin liên quan đếncội nguồn Quốc Tổ qua những ghi chép về mộ chí, nơi chôn cất, ngày giỗ và tục lệ thờ cúng. Dựa vào nghi thức dân gian và việc cúng lễ trong ngày giỗ và nhữnglễ hội ở đình, chùa, đền, miếu; kết hợp với kiểm định về năng lượng tâm linhngoại cảm; nhóm nghiên cứu đã rút ra nguồn tư liệu phong phú, đáng để suy ngẫm về những huyền thoại được truyền tụng lâu đời. Theo đó, những chứng tích trên các địa danh hiện còn có thể phân thành 7 quần thể dưới đây.
Phía hữu ngạn sông Hát. Cụm, đình,chùa,đền, miếu Cảnh Tiên ở Vân Lôi (Thạch Thất) có thể là nơi định cư đầu tiêncủa người Việt cổ. Tại đây lưu giữ được đôi voi tạc từ đá ong cổ với bức Đại tự còn ghi “Lịch Đại Đế Vương”. Cụm cố đô Cực Lạc gồm đồi núi của chùa Tây Phương và Cực Lạc gắn với những truyền thuyết về Nữ Oa. Ở đây có phần mộ Địa Mẫu, Đế Hòa ở Thạch Xá (Thạch Thất). Cụm Hoàng Xá, chùa Vàng gồm những hang động của chùa Thầy, chùa Vàng, động Hoàng Xá (QuôcOai); tại đây còn miếu thờ và mộ vọng của Viêm Đế. Cụm đồi làng Sở, núi Trầm thuộc xã Tiên Phương (Chương Mỹ) được cho là kinh đô của Viêm Bang cũ; gồm nhiều đình,chùa, hang động chứa dấu tích của mộ Thần Nông, mộ Lưỡng Long Cát (thầy dậy Thần Nông), chùa Vô Vi, bia đá thờ mẹ Thần Nông, giếng nước và nhiều chứng tích liên quan đến truyền thuyết về Thần Nông. Về phía tả ngạn dòng sông; những di tích đình, chùa, đền,.miếu, mồ mả, tục lệ dân gian và đặc biệt là kết quả khảo cổ học năm 1984-1985 ở xã Phú Lương cho thấy, có những chứng tích liên quan mật thiết đến truyền thuyết về các vua Hùng; đây cũng được coi là kinh đô Xích Quỷ (Tam Vương) của Lạc Việt xưa (Tạ ViệtDũng, Nguyễn Mạnh Can. 2012).
Thay lời kết luận
Ấn tượng về vùng Hà Nội , Giaó sư Kunihiro Narumi (Nhật Bản) cho rằng, Hà nội tồn tại với mặt nước và cây xanh đáp ứng nhu cầu tinh thần của người dân không giống bất kỳ Thủ đô nào của các nước hiện đại. Bảo tồn cảnh quan tươi đẹp của Hà Nội cần được xem xét theo quan điểm bổ sung thêm giá trị nông nghiệp; hơn thế nữa, đây chính là giá trị thu hút du lịch với nội dung cần được quan tâm trong quản lý môi trường để đảm bảo đời sống văn hóa lành mạnh.
Hệ thống sông ngòi Hà Nội từng tạo nên vẻ đẹp huyện thoại của vùng Thủ đô sông nước; đáng tiếc là trong quá trình công nghiệp hóa, nhiều sông hồ nội đô không còn; ở ngoại đô đang b ịlấp dần. Những dòng sông trong xanh ghi nhận được đầu thế kỷ XX giờ không còn ,bị ô nhiễm nặng hoặc biến thành những dòng sông chết. Giá trị vĩnh hằng của dòng chảy sông nước không chỉ bồi đắp cuộc sống con người, cân bằng sinh thái để phát triển bền vững mà còn gắn bó với văn hóa tâm linh hướng về cội nguồn. Hy vọng là từ những giá trị của Hà nội xưa, các nhà quản lý Thủ đô cần giành sự quan tâm tìm kiếm giải pháp thiết thực nhằm cứu những dòng sông đang bị chết dần thông qua hoạt động công nghiệp thiết thực để gìn giữ môi trường phong phú; đảm bảo phát triển hài hòa nông lâm ngư nghiệp, an toàn, bền vững và cộng sinhcùng với thiên nhiên. /.
|