Bản Kalu là một trong những bản cổ truyền thống tiêu biểu dân tộc ít người thuộc dân tộc Bru- Vân Kiều, được UBND tỉnh Quảng Trị lập dự án bảo tồn. Đây là một trong hai dự án song song nằm trong dự án phát triển du lịch hành lang kinh tế Đông- Tây. Dự án do Sở Văn hóa,Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Trị và Ngân hàng ADB làm chủ đầu tư với tổng kinh phí khoảng 30 tỷ đồng.
Một vài nét về dân tộc Bru – Vân Kiều
Dân tộc bản địa (indigenous peoples) và người thiểu số (minorities) là những khái niệm khác nhau được sử dụng chính thức trong các văn bản của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, hai khái niệm này lại thường được sử dụng lẫn nhau ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới do cách nhìn từ các góc độ chính trị, lịch sử, kinh tế, tôn giáo, chủng tộc, sắc tộc và xã hội.
Người bản địa và người thiểu số là những nhóm người thiệt thòi, dễ bị tổn thương nhất trong các nhóm dân cư. Họ thường bị gạt ra ngoài lề của công cuộc phát triển ở cả các nước đang phát triển và những nước phát triển...
Các dân tộc thiểu số Quảng Trị thuộc ngữ hệ Môn - Khơme miền núi, sống tập trung chủ yếu trên bán đảo Đông Dương, Thái Lan, Malayxia…
Cư dân Môn-Khơme là những người đầu tiên lập nghiệp trên bán đảo Đông Dương. Nhưng vào cuối thế kỷ thứ I và đầu thế kỷ thứ II sau Công nguyên, các quốc gia cổ đại Môn-khome lần lượt tan rã, bị đồng hóa và phân hóa ra thành nhiều tộc người, những nhóm địa phương cư trú xen kẽ với các dân tộc khác.
Trong xã hội người Bru-Vân Kiều từ xa xưa không có khái niệm xã, thôn mà chỉ có khái niệm vel (bản làng). Khi hình thành chế độ phong kiến thì mới có khái niệm xã do người Kinh đặt ra. Khi khái niệm xã hình thành thì ý thức làng bản cũng được mở rộng theo địa giới hành chính chung của xã hội.
Bản làng KaLu, dân tộc Bru - Vân Kiều
Một vài nét về bản truyền thống Kalu, dân tộc Bru – Vân Kiều
Kalu - bản cổ nằm trong quần thể danh thắng Đakrông ở phía Tây tỉnh Quảng Trị, với hệ thống dãy núi bên dòng suối Kalu, dòng suối nước nóng tự nhiên chảy ra từ các hang động và những cánh rừng nguyên sinh.
Làng Kalu có dân số 598 người; 341 nam, 257 nữ.
Phong tục tập quán cơ bản:
- Tập quán không đẻ trong nhà, người phụ nữ chỉ sinh đẻ ở lều nhỏ trong vườn với những món ăn kiêng cữ sau khi sinh; Tập quán đặt tên cho trẻ.
- Hình thức tìm hiểu nam nữ người Vân Kiều qua các lần đi sim (Poộc xu) ; Âm nhạc có sáo, kèn, các làn điệu dân ca trữ tình.
- Lễ cưới có 2 giai đoạn là Tabễng và Kõl ; Vật lễ bao gồm trâu, lợn, gà, mâm đồng, nồi đồng, chiêng, thanh gươm, bạc cũ, vòng bạc đeo tay, hạt đeo cổ, muối ống, cơm ống, cá khô. Nghi lễ này có nghĩa thề nguyện thuỷ chung son sắt trăm năm.
- Những nghi lễ liên quan đến người chết về cúng tế, mai tang, đặc biệt là các kiến trúc nhà mồ.
- Chu kỳ canh tác nương rẫy hình thành nên lịch canh tác. Cách tính nông lịch của đồng bào Vân Kiều- bản Kalu phù hợp với hình thức trồng xen canh và biến đổi khí hậu trong vùng.
- Tập tục kiêng cữ khi xây dựng nhà cửa phù hợp với quan niệm tâm linh và việc phân chia các gian phòng biểu hiện ngôi thứ trong gia đình.
- Trong quan niệm dòng họ (Mu) chỉ gồm những người cùng chung dòng máu (tính theo dòng cha), có quan hệ Tôtem (vật tổ). Người cùng một Mu không được lấy nhau. Có ý thức đoàn kết chặt chẽ trong lễ bỏ mả. Mu thường gắn với những sự tích khác nhau, có các tên gọi riêng (tên địa danh rừng núi, sông suối…) mang một ý nghĩa về tâm linh.
- Giáo dục đức tính thương người, lòng yêu quê hương, sự kính trọng ông bà qua những câu chuyện kể.
- Tín ngưỡng Tôtem (vật tổ).
- Lễ hội mừng lúa mới, lễ trĩa lúa, lễ đâm trâu...
- Trang sức là những vòng kiền, vòng bạc, vòng chân, hoa tai, vòng cổ, chiếc tẩu thuốc...
Hoạt động kinh tế, tổ chức xã hội và văn hóa
Diện tích tự nhiên của làng Kalu 1.224 ha, trong đó đất canh tác 16 ha, bao gồm trồng lúa 10 ha; hoa màu như ngô, sắn, đậu... 6 ha; 18 ha đất thổ cư; đất còn lại là đồi núi và rừng.
Làng Kalu hiện có 190 lao động chính, 92 hộ làm nghề nương rẫy và 2 hộ làm thêm nghề buôn bán nhỏ.
Thu nhập bình quân rất thấp, khoảng 61.000 đồng/người/tháng; Trong làng có 70% nhà sàn, 30% nhà đất...
Hình thái kinh tế chủ đạo vẫn là sản xuất nông nghiệp theo nương rẫy cùng với sắn bắn, hái lượm và chăn nuôi.
Một đám rẫy tốt thường được sử dụng làm 3 vụ, nếu không tốt chỉ làm 1 vụ. Sau đó là thời kỳ bỏ hoá (khoảng 5 - 7 năm) tạo thời gian nghỉ cho đất, giúp cho cây rừng mọc lại, đưa lại khả năng phục hồi chất dinh dưỡng cho đất sau thời gian canh tác lâu dài dẫn tới đất bị thoái hoá.
Sản phẩm đan lát các loại gùi (achói, adu, caroa, xông...), nong, nia khá phong phú và đa dạng nhưng chỉ để dùng trong gia đình.
Mùa rẫy thường kết thúc vào cuối tháng 10, 11 (Âm lịch), mở đầu cho "mùa lễ hội" với các lễ cúng cơm mới, lễ đâm trâu, lễ cúng máng nước, lễ Lapẽ Vel (Lễ cúng thần làng)...
Kiến trúc
Nhà ở người Vân Kiều thôn Kalu là nhà sàn, mặt chính hướng về suối, lưng tựa vào núi làm thế án ngữ. Các đầu nóc nhà này không được đâm vào các đầu nóc nhà kia. Hình thức bố trí dạng như làng phòng thủ hoặc dạng nan hoa, hình móng ngựa. Kỹ thuật kết cấu đơn giản với hình thức chủ yếu là xẻ ngàm, buộc dây mây áp chặt các cấu kiện với nhau. Nguyên liệu chủ yếu để làm nhà là gỗ, mây, tre, nứa, lá tranh, lá mây, lá cọ. Nhà được dựng 3 gian. Mái thường được lợp bằng tranh hoặc mây, dốc khoảng 60 độ, có vòm tròn 2 đầu. Trong nhà bố trí 2 bếp lửa (Tape), bên trái là buồng (pơơclung), là nơi sinh hoạt, ăn ở của 2 vợ chồng và con nhỏ. Buồng được nối với 2 gian nhà ngoài bằng một của phụ (tôôngxưngcất). Gian giữa là nơi nghỉ của con cái trưởng thành cũng là nơi tiếp đón, nơi ăn nghỉ của khách. Gian bên phải là nơi sinh hoạt ăn nghỉ của ông bà.
Bản Kalu hiện tại có 63 ngôi nhà thì 55 ngôi nhà được thiết kế theo dạng nhà sàn truyền thống, còn 8 nhà khác đã “chuyển hóa” thành nhà trệt. Tuy nhiên trong 55 nhà sàn truyền thống đó thì chỉ duy nhất nhà của cụ Hồ Văn Xanh là được dựng đúng như nhà sàn cổ có mái vòm tròn, trang trí hoa văn, tuy vậy cũng đã xuống cấp trầm trọng, mái thì được lợp vừa tranh vừa tôn.
Dự án bảo tồn bản truyền thống KaLu, dân tộc Bru – Vân Kiều
Dự án có nội dung cơ bản gồm:
- Xây dựng nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng, là nhà trưng bày bảo tàng dân tộc học, cũng là nơi biểu diễn, sinh hoạt cộng đồng và tổ chức các lễ nghi, lễ hội của dân bản Kalu.
- Bảo tồn và phát triển môi trường sinh thái xây dựng cảnh quan; Bảo tồn Động Ngài để phục vụ khách tham quan du lịch; Vận động đồng bào làm chuồng trại nuôi nhốt gia súc đưa ra nương rẫy;
- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng: Hệ thống nước sinh hoạt và điện thắp sáng bản Kalu; Nâng cấp đường nội bộ bản các trục chính bằng đường bê tông để tránh sói mòn và khó đi;
- Bảo tồn các nghề truyền thống: Hỗ trợ khôi phục, bảo tồn nghề đan lát; nghề mộc; Âm nhạc dân tộc;
- Bảo tồn và phục dựng các ngôi nhà sàn truyền thống;
- Sưu tầm và trưng bày các loại trang phục truyền thống của người Bru-Vân Kiều bản Kalu cùng với các chất liệu may từ nghề dệt. Tuyền truyền vận động thanh niên, thiếu niên tự hào và mặc trang phục truyền thống Bru-Vân Kiều trong các dịp lễ nghi, lễ hội.
- Sưu tầm và trưng bày các loại nhạc cụ, nông cụ sản xuất truyền thống;
- Bảo tồn các loại hình văn hoá ẩm thực: Các món ăn được khai thác từ rễ, củ, thân, lá, hoa trái..; Cơm lam; Cháo sắn nấu với ốc...
- Bảo tồn các phong tục tập quán theo vòng đời người: Tập tục sinh đẻ và nuôi con, phong tục cưới hỏi, lễ "khơi", tục liên quan đến tang ma.
- Bảo tồn các phong tục tập quán, lễ nghi sinh hoạt, văn hoá cộng đồng và trong lao động sản xuất:
- Bảo tồn 7 lễ hội truyền thống định kỳ của cộng đồng dân tộc Bru-Vân Kiều bản Kalu: Lễ trỉa lúa, lễ cúng cơm mới, lễ Lapẽ vel (lễ cúng thần làng), lễ ăn mừng nhà mới, lễ calơ (lễ kết nghĩa anh em), lễ đâm trâu, lễ rước linh hồn.
- Phát huy tài năng của các nghệ nhân dân gian tiêu biểu....
Các giải pháp thực hiện:
- Vừa đầu tư bảo tồn, vừa phát triển bản văn hoá truyền thống, điểm du lịch sinh thái tham quan, từng bước nâng cao đời sống kinh tế vật chất và văn hoá tinh thần cho đồng bào dân tộc bản Kalu.
- Khoanh vùng bảo tồn làng truyền thống, phát triển khu dân cư ở 2 bên trục Quốc lộ 9, tạo được ấn tượng khi đi ngang qua bản Kalu; Tiến hành quy hoạch tổng thể khu nhà sàn để ở, khu nhà vườn, khu xây dựng các công trình công cộng như: điện, nước, nhà sinh hoạt văn hoá cộng đồng, nhà truyền thống.
- Xây dựng khu nhà (kể cả khuôn viên) của nhà sinh hoạt văn hoá cộng đồng để tổ chức trưng bày, biểu diễn, sinh hoạt văn hóa lễ hội...
- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng.
- Tuyên truyền vận động đồng bào trong bản trong việc tự giác bảo tồn bản văn hoá truyền thống, xây dựng và thực hiện vệ sinh môi trường cảnh quan của điểm du lịch sinh thái. Tổ chức các lớp tập huấn, truyền dạy nghề, học chữ Bru-Vân Kiều, đào tạo hạt nhân văn hóa...
Hiện trạng khu vực Dự án
Một số mẫu thiết kế công trình trong Dự án
Dự án bảo tồn bản truyền thống Kalu dân tộc Bru-Vân Kiều là một dự án tổng hợp, đồng bộ trên nhiều phương diện, từ hoạt động kinh tế xã hội, kiến trúc đến văn hóa, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc thiểu số./.
KTS. Đoàn Thị Lan, Học viên CH, lớp 2011, ĐHXD.
Tài liệu tham khảo
http://www.na.gov.vn/nnsvn/upload/images/Attach/Quyen_cua_nguoi_thieu_so%20va%20ban%20dia.pdf
http://cema.gov.vn/modules.php?name=Content&op=details&mid=380
|