Tuần -14 - Ngày 23/04/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Tin tức chung
Triết lý giáo dục đại học và vấn đề tự chủ đại học
08/03/2012


Bài viết dưới đây đề cập mối liên hệ giữa triết lý về giáo dục đại học(GDĐH) và mức độ tự chủ cho các cơ sở GDĐH, từ đó nhận xét về những bất cập trong cách tư duy về GDĐH tại Việt Nam hiện nay và góp ý xây dựng cho Dự thảo Luật GDĐH.

Phạm Thị Lan Phượng
Dự án Luật GDĐH Việt Nam đang thu hút sự quan tâm và bàn luận sôi nổi trong toàn xã hội. Nhiều ý kiến cho rằng luật còn chung chung, chưa làm rõ những nguyên tắc chủ đạo và đột phá trong quản lý và giám sát cơ sở GDĐH. Những vấn đề đang được tranh luận chính là những vấn đề mới, nảy sinh trong quá trình nền GDĐH nước nhà chuyển sang giai đoạn đại chúng.  Thực ra, để bàn về những vấn đề cụ thể như tự chủ đại học, phân tầng, cơ chế tài chính cho GDĐH, trước tiên phải xác định được GDĐH là gì, mục tiêu của GDĐH là gì, nhiệm vụ cơ sở GDĐH là gì. Hay nói cách khác là tư duy GDĐH trong giai đoạn hiện nay là gì? Đây cũng là những câu hỏi mà hầu hết các hệ thống GDĐH đang tiến hành đổi mới cũng đang xem xét và định nghĩa lại.

Nội hàm của tự chủ đại học xuất phát từ triết lý về GDĐH tại mỗi quốc gia

Tự chủ có nghĩa là không bị kiểm soát từ bên ngoài. Tự chủ đại học (ĐH) là khái niệm phát sinh cùng với sự ra đời của trường ĐH (universities). Trong lịch sử, trường ĐH đã phải đấu tranh không ngừng để thoát khỏi sự can thiệp của giáo hội và nhà nước. Ngày nay tự chủ ĐH (university autonomy) thể hiện mối quan hệ giữa trường ĐH và nhà nước, là sự độc lập của trường ĐH đối với sự kiểm soát của nhà nước trong việc vận hành hoạt động của nó. Tự chủ ĐH không có nghĩa là trường ĐH có sự tự do hoàn toàn, mà tự chủ ĐH luôn được giới hạn trong khuôn khổ được giới hạn bởi luật pháp và các thỏa thuận giữa nhà nước với khu vực GDĐH và từng trường ĐH. Chính khuôn khổ xác định mức độ tự chủ ĐH là cái cốt lõi hình thành nên thực chất của cụm từ “tự chủ ĐH”.

Ở Việt Nam, cụm từ “trường ĐH” chưa có được nghĩa tương tự như từ university - để mô tả loại hình tổ chức hoạt động học tập bậc cao (higher learning), ở đó vừa tiến hành nghiên cứu và giảng dạy - vì ngay cả trường ĐH trọng điểm và ĐH quốc gia thì hoạt động chính và nguồn thu chính của trường ĐH vẫn là từ đào tạo.
Một điều đáng lưu ý là, các nghiên cứu về quản trị ĐH thường chọn đối tượng nghiên cứu là các ĐH lớn, có uy tín. Đây là các trường ĐH định hướng nghiên cứu, có đội ngũ học giả uyên bác, theo đuổi các mục tiêu học thuật dài hạn. Vì vậy các nghiên cứu này thường cổ vũ cho tự chủ ĐH. Thực ra, ngoài khu vực trường ĐH, GDĐH hay còn gọi là giáo dục sau trung học (higher education hay post-secondary education) còn bao gồm một khu vực khác là các trường đào tạo lao động chuyên nghiệp bậc cao, đào tạo phục vụ nhu cầu của địa phương. Trong khi khu vực trường ĐH thường nhấn mạnh nhiệm vụ sản sinh ra tri thức, đào tạo năng lực nghiên cứu, và phương pháp tư duy, thì khu vực không thuộc trường ĐH thường nhấn mạnh nhiệm vụ đào tạo nghề với chương trình học tập trung cung cấp kĩ năng thực hành. Khu vực GDĐH không phải trường ĐH này thường phải chịu sự chi phối của các cơ quan quản lý trung ương và của chính quyền địa phương.


Ở Việt Nam, cụm từ “trường ĐH” chưa có được nghĩa tương tự như từ university - để mô tả loại hình tổ chức hoạt động học tập bậc cao (higher learning), ở đó vừa tiến hành nghiên cứu và giảng dạy - vì ngay cả trường ĐH trọng điểm và ĐH quốc gia thì hoạt động chính và nguồn thu chính của trường ĐH vẫn là từ đào tạo. Có lẽ vì vậy một số nghiên cứu của tác giả nước người về GDĐH Việt Nam đã sử dụng cụm từ post-secondary education hoặc tertiary education. Tuy nhiên về mặt hình thức, hệ thống GDĐH Việt Nam cũng bao gồm hai khu vực: khu vực trường ĐH và khu vực không phải trường ĐH là các trường cao đẳng.

Có thể nói rằng hai mô hình tổ chức ĐH chính chi phối cách quản lý GDĐH trên thế giới là mô hình của các nước Anglo-Saxon và của các nước châu Âu lục địa. Mô hình ĐH của các nước Anglo-Saxon bắt nguồn từ Anh và du nhập sang các nước Hoa Kỳ, Australia, New Zealand, và Canada. Mô hình truyền thống của Anh là: trường ĐH không phải là một bộ phận trong tổ chức bộ máy của nhà nước, hoạt động theo điều lệ riêng, và không chịu sự chỉ đạo từ bất cứ cơ quan nhà nước nào. Vậy ai giám sát hoạt động của trường ĐH? Đó chính là các hội đồng trường mà thành phần gồm đa số các thành viên ngoài trường và hội đồng giảng viên bao gồm những giáo sư uy tín trong trường. Tóm lại, tự chủ của hệ thống trường ĐH học trong nhóm nước Anglo-Saxon là giao quyền quyết định cao cho trường ĐH, trường ĐH chịu sự giám sát của xã hội thông qua hội đồng trường và sự tự quản của đội ngũ học giả của trường ĐH.

Hiện tượng đổi mới quản trị GDĐH trên toàn cầu hiện nay có xu hướng chung là thử nghiệm và hoàn thiện mô hình trường ĐH hoạt động theo tư cách pháp nhân độc lập hoàn toàn và áp dụng các kỹ thuật quản lý của doanh nghiệp vào trường ĐH. Cụm từ thường dùng để mô tả mô hình quản trị trường ĐH mới là “ĐH doanh nghiệp” (entrepreneurial universities).
Trường ĐH tại các nước châu Âu lục địa được xây dựng trên khái niệm tự do học thuật. Tự chủ của trường ĐH về các vấn đề học thuật được coi là một giá trị thiêng liêng và đặt ở mức ưu tiên cao nhất. Trường ĐH được coi là một thể chế của nhà nước nên vai trò của nhà nước trong việc quản lý trường ĐH được coi là tất yếu. Tại các nước này, nhà nước thường quy định khung chương trình quốc gia và các tiêu chuẩn chung về đào tạo (Amaral, Jones và Karseth 2003). Các quyết định của trường ĐH được hướng dẫn bởi các luật và các quy định khá chi tiết. Trường ĐH vận hành dựa vào các khung pháp lý và sự tự quản của đội ngũ học giả của trường ĐH.


Hơn hai thập kỉ qua, hai mô hình tổ chức ĐH phổ biến này đều trải qua cải cách về quản trị ĐH. Mô hình quản trị ĐH của các nước Anglo-Saxon dịch chuyển theo hướng tăng cường sự giám sát của nhà nước thông qua các cơ quan trung gian cấp tài trợ và giám sát chất lượng. Mô hình quản trị ĐH của các nước châu Âu lục địa dịch chuyển theo hướng xóa bỏ quản lí trực tiếp của nhà nước bằng giám sát từ xa qua các cơ chế giải trình và giao nhiều quyền tự chủ hơn cho các trường ĐH. Hiện tượng đổi mới quản trị GDĐH trên toàn cầu hiện nay có xu hướng chung là thử nghiệm và hoàn thiện mô hình trường ĐH hoạt động theo tư cách pháp nhân độc lập hoàn toàn và áp dụng các kỹ thuật quản lý của doanh nghiệp vào trường ĐH. Cụm từ thường dùng để mô tả mô hình quản trị trường ĐH mới là “ĐH doanh nghiệp” (entrepreneurial universities).

Cùng với sự thành lập của hai ĐH quốc gia vào giữa thập niên 1990, khái niệm tự chủ ĐH đã xuất hiện và thu hút được sự quan tâm và tranh luận tại Việt Nam. Tuy nhiên, sau hơn 15 năm áp dụng, có hẳn một nghị định về quyền tự chủ cho cơ quan nhà nước trong đó có các cơ sở GDĐH, các trường ĐH Việt Nam vẫn được coi là không có tự chủ. Vấn đề tự chủ ĐH trong dự thảo luật GDĐH vẫn đang là một vấn đề nóng hổi và gặp nhiều tranh luận gay gắt. Cuộc đấu tranh giành tự chủ của các trường ĐH Việt Nam có lẽ đang ở trong một thời điểm thật gay cấn. Trường ĐH muốn có nhiều quyền quyết định hơn và ít chịu sự kiểm soát của nhà nước hơn, trong khi nhà nước chưa đủ tin tưởng để giao thêm một số quyền cho các trường ĐH. Để có cơ sở về việc trao tự chủ đến mức độ nào cho trường ĐH, có lẽ ba câu hỏi quan trọng nhất cần phải được trả lời là: Tự chủ về cái gì? Giao tự chủ cho cơ sở GDĐH nào và giao đến đâu? Làm sao có thể giám sát được việc thực hiện cam kết của trường ĐH khi nhận tự chủ? Hai câu hỏi đầu liên quan mật thiết với nhau vì nó cùng được xác định bởi câu hỏi  về triết lý GDĐH, tức là GDĐH là gì. Câu hỏi thứ ba liên quan đến kỹ thuật và công cụ quản lý nhà nước về GDĐH. Sau đây là gợi ý trả lời cho các câu hỏi trên.

Tự chủ về cái gì? Giao tự chủ cho cơ sở GDĐH nào và giao đến đâu?

Bởi các yếu tố bản địa và các quan điểm về GDĐH khác nhau nên mô hình cơ sở GDĐH Anglo-Saxon và châu Âu lục địa cũng khác nhau. Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của mô hình GDĐH Liên Xô cũ mà biểu hiện rõ nhất của nó là sự thống trị của nếp quản lý qua chỉ đạo và mệnh lệnh từ trên giao xuống. Nếu chỉ bàn đến trao tự chủ cho các trường ĐH là mới chỉ bàn đến cái ngọn mà quên mất liệu rằng cái gốc và cái thân cũ kỹ có mang nổi cái ngọn đầy cách tân. Thay đổi trong tư duy về GDĐH hay xác định lại khái niệm GDĐH sẽ giúp cho việc xác định được đặc điểm của các loại hình cơ sở GDĐH, nhiệm vụ và mức độ tự chủ cho từng loại hình cơ sở đó.

Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của mô hình GDĐH Liên Xô cũ mà biểu hiện rõ nhất của nó là sự thống trị của nếp quản lý qua chỉ đạo và mệnh lệnh từ trên giao xuống. Nếu chỉ bàn đến trao tự chủ cho các trường ĐH là mới chỉ bàn đến cái ngọn mà quên mất liệu rằng cái gốc và cái thân cũ kỹ có mang nổi cái ngọn đầy cách tân.
Một cách phân loại tự chủ ĐH đơn giản nhưng vẫn diễn tả được nội hàm của nó là cách phân loại của Robert Berdahl (1990), chia tự chủ ĐH ra làm 2 loại: tự chủ thực chất (substantive autonomy) là tự chủ của cơ sở GDĐH trong xác định mục tiêu học thuật và chương trình đạo tạo; và tự chủ thủ tục (procedural autonomy) là sự tự chủ trong việc xác định các phương tiện để thực hiện mục tiêu học thuật đề ra.


Tự chủ trong mục tiêu hoạt động

Nếu quan niệm GDĐH là để tạo ra tri thức, để bảo tồn và chuyển giao văn hóa và giá trị của quốc gia, để dẫn dắt và định hướng xã hội thì GDĐH phải hoàn toàn thoát khỏi mọi sự dẫn dắt và định hướng của bất cứ mục tiêu cụ thể nào. GDĐH chỉ cần có một mục tiêu rộng lớn, duy nhất và cuối cùng là tạo ra những điều tốt đẹp cho xã hội. Mục tiêu như vậy nên giao cho các ĐH định hướng nghiên cứu. Ban đầu, nhà nước cần bao cấp cho các ĐH này. Liệu các ĐH này có đạt được đến mục tiêu sáng tạo cái mới và dẫn dắt xã hội hay không thì cần có thời gian vì hiệu quả của các hoạt động nghiên cứu và GD thường chỉ thể hiện hết trong dài hạn. Nhóm trường ĐH định hướng nghiên cứu này nếu xây dựng được một môi trường học thuật có tương tác với quốc tế thì dần dần sẽ hình thành được ĐH đẳng cấp quốc tế.

Theo điều 39 Luật GD Việt Nam năm 2005, “Mục tiêu của giáo dục ĐH là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” Như vậy có nghĩa là mục tiêu tối thượng của GDĐH Việt Nam hiện nay là phục vụ cho sự phát triển của quốc gia. Sự phát triển của quốc gia được định ra bằng các kế hoạch chiến lược cụ thể, GDĐH phải đạt được các mục tiêu phát triển của chính nó và liên đới phục vụ việc đạt đến một số mục tiêu khác. Quan niệm GDĐH là một công cụ của nhà nước và chịu sự can thiệp của nhà nước cũng có những cơ sở hợp lý và quan niệm này vẫn tồn tại ở phần lớn các nước châu Âu lục địa và ở hầu hết các nước châu Á. Quy mô và cơ cấu GDĐH sẽ phụ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của các ngành kinh tế. Khu vực GDĐH đào tạo lao động chuyên nghiệp sẽ đảm nhận nhiệm vụ này. Với lao động thuộc ngành nghề nhà nước cần mà không thu hút người học thì nhà nước sẽ đặt hàng và cấp kinh phí. Với các ngành nghề đào tạo mà thị trường lao động và người học đều có nhu cầu thì nhà nước để thị trường điều chỉnh cơ cấu và chương trình đào tạo. Ở khu vực này, nhà nước phải cân nhắc cấp kinh phí cho ngành nghề nào, mức độ bao cấp ra sao, can thiệp vào nội dung chương trình tới mức độ nào.

Bị giới hạn bởi luật GD, cuộc tranh luận tự chủ ĐH của Việt Nam hiếm khi bàn tới vấn đề tự chủ theo đuổi mục tiêu học thuật. Có thể thấy trong các giới thiệu về trường ĐH, như trên website của các trường chẳng hạn, hầu như tất cả các trường đều đặt mục tiêu đào tạo theo đúng mục tiêu của Luật GD đề ra.

Tự chủ trong vận hành hoạt động


Hai vấn đề chính mà các trường ĐH hiện nay muốn có tự chủ là: quy định mức học phí và mở ngành đào tạo có nhu cầu xã hội cao. Với các ngành không có nhu cầu từ xã hội cao thì trường có được khuyến khích mở họ cũng không nhiệt tình. Hai vấn đề tự chủ này liên quan đến bù đắp chi phí đào tạo tức là phương tiện để thực hiện mục tiêu và thuộc về vấn đề tự chủ về hình thức hoạt động.

Bị giới hạn bởi luật GD, cuộc tranh luận tự chủ ĐH của Việt Nam hiếm khi bàn tới vấn đề tự chủ theo đuổi mục tiêu học thuật. Có thể thấy trong các giới thiệu về trường ĐH, như trên website của các trường chẳng hạn, hầu như tất cả các trường đều đặt mục tiêu đào tạo theo đúng mục tiêu của Luật GD đề ra.
Trường ĐH là một tổ chức với những đặc tính riêng như: mục tiêu học thuật đa dạng khó xác định, công nghệ giáo dục không rõ ràng, sự tham gia của các đơn vị và thành viên cá nhân không ổn định, các đơn vị thành viên liên kết lỏng lẻo, đòi hỏi nghiệp vụ chuyên môn cao, bởi vậy nó cần có một mô hình tổ chức và quản lý riêng. Khi cơ sở có tự chủ, có cơ chế quản lý linh động thì sẽ phát huy được sáng kiến và có nhiều đổi mới. Tuy nhiên, trong lĩnh vực quản lý, bất cứ một hoạt động công việc nào cũng cần phải có giám sát để đảm bảo rằng hoạt động đó đạt được mục tiêu đã cam kết. Ở Việt Nam, trong xu hướng thương mại hóa GD như hiện nay, xã hội dường như đã mất lòng tin vào khu vực GDĐH với vai trò tự quản. Với số lượng các trường ĐH đông đảo như hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) sẽ không bao giờ có đủ lực lượng nhân sự để đi giám sát từng cơ sở GDĐH. Năng lực giám sát của xã hội đối với trường ĐH cũng còn rất hạn chế. Không nhiều sinh viên và phụ huynh đã đọc những văn bản cam kết ba công khai của trường ĐH. Quyết định học một trường ĐH của sinh viên và phụ huynh phần lớn bởi vì họ cần một tấm bằng ĐH như một sự đầu tư cho tương lai. Khi mà cầu về GDĐH còn lớn cung, thông tin về chất lượng dịch vụ GDĐH không đầy đủ và thực chất thì có nghĩa là thị trường GDĐH chưa hoàn chỉnh và cần phải được điều tiết bởi nhà nước. Nói một cách khác, hoạt động của các trường ĐH Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập, do đó sự  giám sát của nhà nước đối với GDĐH là cần thiết. Điều cần cải thiện hiện nay là quản lý nhà nước cần giảm bớt tính mệnh lệnh và các quy định chi tiết, chuyển sang hoàn thiện khung pháp lý và ký kết thỏa thuận giữa Bộ GD&ĐT với cơ sở GDĐH. Phần tiếp theo của bài viết sẽ thảo luận về cơ chế giám sát tự chủ ĐH.


Làm sao có thể giám sát được việc thực hiện cam kết của trường ĐH khi nhận tự chủ?


Vai trò của nhà nước trong việc xây dựng và điều tiết thị trường là định ra nguyên tắc hoạt động thị trường lành mạnh và chế tài. Chính vì vậy, xây dựng cơ chế giám sát khu vực GDĐH thông qua công khai thông tin, giải trình và kiểm định chất lượng cũng là những vấn đề thiết yếu và đang được bàn luận sôi nổi. Tuy nhiên, hiện nay những công cụ quản lý chất lượng GDĐH của Bộ còn rất hình thức và chưa phát huy tác dụng. Các trường ĐH vẫn chưa hài lòng với cách làm kiểm toán chất lượng cơ sở GDĐH của Bộ. Sự phân hóa về mục tiêu học thuật và chất lượng giáo dục giữa các cơ sở GDĐH đã hình thành khá rõ nét. Vì thế, vừa để chống xuống cấp chất lượng GDĐH vừa để khuyến khích cải thiện chất lượng, đánh giá chất lượng GDĐH theo một chuẩn chung cho cả hệ thống GDĐH là không hợp lý. Hình thành được một hệ thống đánh giá chất lượng GDĐH có hiệu quả tại Việt Nam sẽ còn cần rất nhiều thời gian.

Trong khi còn đang tìm kiếm một cơ chế hợp lý để giám sát hoạt động cơ sở GDĐH dựa vào đánh giá mức độ hiệu quả đầu ra, trước mắt, có thể phân hóa mức độ giám sát của nhà nước đối với cơ sở GDĐH theo nhiệm vụ học thuật của mỗi cơ sở GDĐH. Bộ GD&ĐT nên bổ sung thêm điều lệ hoạt động cho các loại hình cơ sở GDĐH mới phát sinh. Xây dựng điều lệ mô hình hoạt động cho ĐH hoạt động theo điều lệ doanh nghiệp (bao gồm cả ĐH tư thục), ĐH hoạt động theo điều lệ cơ quan nhà nước, và ĐH định hướng nghiên cứu. Nếu chưa hình thành được ĐH định hướng nghiên cứu thì xây dựng điều lệ hoạt động nghiên cứu có tầm bao quát rộng hơn Quy định về quản lý đề tài nghiên cứu khoa học hiện nay. Các trường ĐH được lựa chọn loại hình hoạt động cho mình và làm dự án giải trình lựa chọn điều lệ hoạt động. ĐH định hướng nghiên cứu và các hoạt động nghiên cứu thuần túy khoa học cần được trao quyền tự chủ như Viện Toán cao cấp vừa mới được thành lập. Thái Lan và Malaysia đang đang cải cách quản trị ĐH theo hướng mở rộng mô hình ĐH hoạt động theo điều lệ doanh nghiệp. Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm các nước này. Phần đông số trường ĐH Việt Nam sẽ vẫn hoạt động theo hình thức phổ biến hiện nay tức là hoạt động theo điều lệ cơ quan nhà nước. Các trường ĐH này sẽ tuân thủ theo điều lệ trường ĐH ban hành năm 2010 (hoặc sửa đổi nếu có xung đột với các văn bản phát luật mới).

Đổi mới giao tự chủ cho trường ĐH hoạt động theo điều lệ cơ quan nhà nước có thể thực hiện theo từng trường hợp dựa trên mức độ thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Cách làm đã và đang thực hiện của Bộ GD&ĐT là giao nhiều quyền tự chủ hơn các ĐH quốc gia, ĐH vùng và các trường ĐH trọng điểm là theo nguyên tắc trường hợp này. Bởi vì các ĐH quốc gia, ĐH vùng và một số trường ĐH trọng điểm đã xây được hệ thống đảm bảo chất lượng tại cơ sở khá hoàn thiện nên sẽ nhận được sự tin tưởng hơn.

Trên đây là những đóng góp và gợi ý của người viết cho việc xây dựng Luật GDĐH. Khi mà Luật GDĐH chưa bao gồm những triết lý GDĐH mới, chưa thể hiện thay đổi trong tư duy GDĐH, chưa thiết kế được các điều lệ hoạt động cho các hình thức GDĐH mới ở Việt Nam thì việc ban hành Luật GDĐH mà quốc hội dự kiến sẽ thông qua vào kì họp tháng 5 năm 2012 là vội vàng và sẽ không tạo ra được những bước đổi mới trong quản lý GDĐH như mong muốn.
 
Tài liệu tham khảo

Berdahl, R. (1990). Academic Freedom, Autonomy, and Accountability in British Universities. Studies in Higher Education, 19(2), 151–164.

Amaral, A., Jones,A.J., & Karseth, B. (2002). Governing Higher Education: Comparing National Perspectives, in Governing Higher Education: National Perspectives on Institutional Governance, Amaral, A., Jones, A.J., & Karseth, B. (eds.). Dortrecht, the Netherlands: 279-298.

(theo tiasang.com.vn)
Cập nhật ( 21/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“ Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả cũng là hỏng việc.

Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.

Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”.

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com