15 năm qua (1996-2010) pháp luật về ưu đãi đầu tư (ƯĐĐT) tại các KKT (bao gồm KKT ven biển và KKT cửa khẩu) của Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định, góp phần tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư và tạo dựng môi trường đầu tư đặc biệt thuận lợi cho việc thu hút các dự án đầu tư đến với các KKT. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về ưu đãi đầu tư tại các KKT đang tồn tại những bất cập và hạn chế. Để góp phần tạo “môi trường kinh doanh và đầu tư đặc biệt thuận lợi” cho các KKT là điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư, nhất thiết phải xây dựng một hệ thống các chính sách, ƯĐĐT vượt trội, phù hợp với thông lệ quốc tế, với từng giai đoạn phát triển của từng KKT từ Trung ương và tạo sự mềm dẻo, linh hoạt cho chính quyền địa phương, cho từng KKT trong việc thực thi và đề xuất các chính sách ƯĐĐT đáp ứng nhu cầu thiết thực của nhà đầu tư.
I. Những ưu điểm và hạn chế của pháp luật về ƯĐĐT tại KKT
Trước khi Luật Đầu tư năm 2005 được ban hành, các quy định về ƯĐĐT cho KKT chỉ tồn tại trong các quyết định của Thủ tướng Chính phủ và một số Thông tư của Bộ Tài chính. Văn bản được xem là văn bản pháp quy đầu tiên có quy định riêng, chuyên biệt về những chính sách, nội dung các ƯĐĐT tại KKT là Quyết định số 675/QĐ-TTg ngày 18/9/1996 của Thủ tướng Chính phủ về áp dụng thí điểm một số chính sách tại Khu vực cửa khẩu Móng Cái. Tại quyết định này quy định một số ưu đãi về giảm tiền thuê đất, tiền thuê mặt nước để triển khai thực hiện dự án; giảm thuế lợi tức, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đối với nhà đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư tại phạm vi Khu vực cửa khẩu Móng Cái. Tiếp đó, đến năm 2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg về chính sách đối với KKT cửa khẩu biên giới nhằm chuyển từ giai đoạn thí điểm sang giai đoạn thực hiện chính thức. Quyết định 53/2001/QĐ-TTg tiếp tục kế thừa và thống nhất các quy định về ƯĐĐT trong các quyết định trước đây của Thủ tướng Chính phủ về những ưu đãi riêng cho từng KKT cửa khẩu đã được thành lập.
Đối với KKT ven biển, ngày 05/6/2003, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định này 108/2003/QĐ-TTg về việc thành lập và ban hành Quy chế hoạt động của KKT mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam. Các quy định tại Quyết định số 108/2003 tạo cơ sở cho việc áp dụng các chính sách “thoáng mở”, với các ƯĐĐT có thể vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật hiện hành.
Luật Đầu tư năm 2005 được ban hành có thể nói đã luật hóa một số quy định về ƯĐĐT tại KKT, đồng thời quy định về việc giao Chính phủ quy định cụ thể những ƯĐĐT áp dụng đối với KKT.
Trên cơ sở Luật Đầu tư năm 2005, ngày 14/3/2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 29/2008/NĐ-CP quy định về KCN, KCX, KKT. Nghị định số 29/2008/NĐ-CP đã quy định những nội dung chủ yếu trên các lĩnh vực quy hoạch, thành lập, hoạt động, cơ chế vận hành, đầu tư, chính sách hỗ trợ phát triển hạ tầng và quản lý nhà nước đối với các loại khu trong đó có KKT. Với việc ban hành Nghị định này, các văn bản pháp quy về KKT đã được nâng tầm cao hơn. Tinh thần nội dung của Nghị định 29/2008/NĐ-CP hướng tới việc thống nhất cơ chế, chính sách ƯĐĐT, cơ bản hạn chế được sự phân biệt đối xử, tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng và sân chơi bình đẳng đối với các hoạt động đầu tư trong việc đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng, đầu tư phát triển sản xuất, dịch vụ trong KKT; mặt khác, Nghị định cũng đã có các quy định nhằm hoàn thiện mô hình, cơ chế và chức năng quản lý nhà nước đối với KKT, chuyển từ cơ chế “ủy quyền” sang cơ chế “phân cấp và giao nhiệm vụ trực tiếp” cho các Ban quản lý KKT một cách toàn diện hơn.
Trong thời gian 2009-2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy định chính sách ƯĐĐT cho KKT, như các quyết định số 33/2009/QĐ-TTg về cơ chế, chính sách tài chính đối với KKT cửa khẩu; số 100/2009/QĐ-TTg về quy chế hoạt động của khu phi thuế quan trong KKT, KKT cửa khẩu; số 126/2009/QĐ-TTg về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách trung ương đối với đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KKT ven biển... Bên cạnh đó, các quy định về ƯĐĐT ngày càng hướng tới việc thống nhất cơ chế, chính sách ƯĐĐT tại các loại hình KKT (KKT cửa khẩu, KKT ven biển) và giữa các KKT cụ thể trong từng loại hình.
Xu hướng thống nhất các ưu đãi ngày càng được thể hiện rõ hơn từ năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành 13 quyết định sửa đổi, bổ sung và thay thế cho các quyết định về thành lập các KKT ven biển trước đây; đồng thời có Quyết định số 16/2010/QĐ-TTg ngày 03/3/2010 sửa đổi, bổ sung một số quy định tại các quy chế của KKT cửa khẩu.
Ưu điểm của pháp luật về ƯĐĐT tại các KKT
Thứ nhất, trong thời gian qua các quy định pháp luật về ƯĐĐT tại các KKT đã có bước phát triển nhất định cả về quy mô số lượng các văn bản pháp quy và tầm hiệu lực pháp lý (Luật Đầu tư năm 2005, Nghị định 29/2008/NĐ-CP) đã tạo thành một hành lang pháp lý cho việc áp dụng và thực thi các chính sách ƯĐĐT tại các KKT.
Thứ hai, các ưu đãi đầu vào về tài chính, đất đai, lao động nhìn chung có sự tương đồng với các mô hình KKT của các nước trong khu vực và trên thế giới, có sự phù hợp với thông lệ quốc tế; và được các nhà đầu tư quan tâm trực tiếp. Các ưu đãi về thuế đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp là tương đối thấp so với mặt bằng chung của các KKT ở các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ ba, một số quy định của chính sách ƯĐĐT cũng đã có định hướng tới cơ cấu lĩnh vực ngành nghề; chú trọng đến ngành nghề lĩnh vực cần ưu tiên khuyến khích đầu tư theo quy hoạch chung và quy hoạch, định phướng phát triển của từng KKT.
Thứ tư, mức độ ƯĐĐT tại các KKT hiện nay được áp dụng ở mức ưu đãi cao nhất theo các quy định của pháp luật về ƯĐĐT hiện hành; các ƯĐĐT áp dụng đối với dự án đầu tư thuộc địa bàn đặc biệt khuyến khích đầu tư được áp dụng cho các dự án đầu tư ở các KKT.
Thứ năm, các chính sách ƯĐĐT tại các KKT ngày càng có sự thống nhất mặt bằng ưu đãi chung tại các KKT, (như các quy định của Nghị định 29/2008/NDD-CP của Chính phủ) trong phạm vi cả nước, loại bỏ “cơ chế xin - cho”. Bên cạnh đó, do tính chất, vai trò đặc thù, một số KKT vẫn được hưởng những quy chế đặc biệt với một số ƯĐĐT cao hơn.
Thứ sáu, các quy định của pháp luật về ƯĐĐT đều hướng đến việc đơn giản các thủ tục hành chính cho hoạt động đầu tư tại các KKT. Thủ tục hành chính về quản lý đất đai, đầu tư, xây dựng tại KKT đều được áp dụng theo cơ chế “một cửa” hoặc “một cửa liên thông”, ISO 9001:2008; Nghị định 29/2008/NĐ-CP tập trung đẩy mạnh thực hiện cơ chế phân cấp, ủy quyền nhiều hơn cho các Ban quản lý KKT, đảm bảo sự công khai, minh bạch, thực hiện thuận tiện các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh cho nhà đầu tư, doanh nghiệp.
Những hạn chế của pháp luật về ƯĐĐT tại KKT
Thứ nhất, các quy định về ƯĐĐT còn nằm “tản mát” trong nhiều văn bản pháp luật ở nhiều cấp độ với hiệu lực pháp lý khác nhau, gây khó khăn cho nhà đầu tư và cả cơ quan, cán bộ thực thi công vụ trong việc tìm hiểu, thực hiện các quy định này. Mặc dù thời gian gần đây, Chính phủ đã có sự cố gắng trong việc tập hợp hóa, nâng tầm pháp lý các quy định về ƯĐĐT tại các KKT trong Nghị định số 29/2008 nhưng sự cố gắng này là chưa đủ. Thực tế các quy định về ƯĐĐT tai các KKT tồn tại ở các văn bản pháp luật khác nhau như: Luật Đầu tư, Luật Đất đai, các Luật chuyên ngành về thuế; mặc khác, một số quy định ưu đãi có tính đặc thù của từng KKT chỉ tồn tại trong các quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Thứ hai, cơ chế pháp lý cho việc xây dựng chính sách ƯĐĐT còn thiếu vắng sự tham gia của nhà đầu tư - đối tượng chịu tác động của chính sách này. Các ƯĐĐT hiện tại chưa được nhà đầu tư quan tâm nhiều.
Thứ ba, các KKT đều sử dụng các chính sách ưu đãi về giá thuê đất và thuế quan tương tự như ưu đãi của những KKT tại các quốc gia khác trong khu vực. Vì vậy, kém hấp dẫn nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, các cơ chế, chính sách ưu đãi đối với KKT còn bị khống chế bởi quy định khung của pháp luật, do vậy chính sách ưu đãi hiện hành chưa có tính vượt trội.
Thứ năm, các cơ chế, chính sách ưu đãi thường thiếu nhất quán, thiếu tính ổn định lâu dài (vòng đời của chính sách ngắn).
Trước hết là chính sách ưu đãi về thuế. Các nhà đầu tư cho rằng chính sách ưu đãi về thuế là không bền vững.
Thứ sáu, các chính sách ƯĐĐT hiện hành không phát huy tác dụng trong điều kiện chỉ số năng lực cạnh tranh của các địa phương có KKT không cao.
Thứ bảy, một số quy định pháp luật về các ưu đãi cụ thể còn bất cập, thiếu rõ ràng và còn có sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài như:
* Về thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế thu nhập cá nhân và về tình hình thức nhận quyền sử dụng đất, v.v..
II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện ƯĐĐT tại KKT
Từ việc xem xét tình hình thực hiện những quy định pháp luật về ƯĐĐT tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, theo chúng tôi các cơ quan chức năng xây dựng và thực hiện chính sách ƯĐĐT tại KKT theo ba định hướng dưới đây:
(i) Nghiên cứu phát triển mô hình KKT mới gắn với cơ chế chính sách đặc thù theo hướng mở về thể chế hành chính, kinh tế để tạo bước đột phá phát triển cho các KKT. Trước mắt, lựa chọn một vài KKT ven biển có đủ điều kiện và vị trí địa lý hợp lý, có khả năng tạo sức phát triển lan toả mạnh để thí điểm sau đó nhân rộng mô hình. Đối với các KKT cửa khẩu nên tập trung ưu tiên vào phát triển 9 KKT cửa khẩu đã được quy hoạch theo Quyết định số 52/2008/QĐ-TTg ngày 25/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ.
(ii) Trong giai đoạn đầu chúng ta cũng tiếp tục duy trì những chính sách ưu đãi đầu vào nhưng cần kết hợp với định hướng ưu đãi theo hướng phát huy lợi thế so sánh kinh tế, từng bước chuyển dần những ưu đãi đầu vào như: miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; hỗ trợ tài chính trực tiếp... sang các ưu đãi mang tính gián tiếp như: giảm chi phí cho doanh nghiệp thông qua việc hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng hiện đại, tăng chất lượng, giảm chi phí các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp...; đồng thời, kết hợp chính sách thuế quan linh hoạt. Các ưu đãi phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của KKT với các quy hoạch cụ thể khoa học. Đối với những KKT đã có những thành công bước đầu, đã qua giai đoạn phát triển về số lượng nên có chính sách ƯĐĐT định hướng chuyển dần sang các lĩnh vực, ngành nghề công nghệ cao, dịch vụ hiện đại. Nội dung các biện pháp đầu tư phải đảm bảo đáp ứng với quá trình thực hiện các cam kết thương mại quốc tế của Việt Nam.
(iii) Trong cơ chế xây dựng chính sách, pháp luật về ƯĐĐT tại các KKT nên tạo cơ chế để nhà đầu tư được tham gia vào quá trình xây dựng chính sách này. Đặc biệt là đối với nhà đầu tư các dự án động lực, có tính chất quan trọng của từng KKT. Nhà đầu tư được tham gia đề xuất chính sách ưu đãi cho dự án đầu tư, Ban quản lý KKT, Chính quyền địa phương xem xét, kiến nghị Chính phủ, Quốc Hội quyết định nhằm đảm bảo thật sự đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư.
Về các giải pháp cụ thể
Một, cần xúc tiến xây dựng Luật KKT đặc biệt để tạo hành lang pháp lý đầy đủ, vững chắc hơn cho việc phát triển các loại khu, trong đó có KKT trên cơ sở luật hóa các quy định của Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg, Quyết định số 126/2009/QĐ-TTg, Quyết định số 100/2009/QĐ-TTg và các quyết định về quy chế hoạt động của các KKT. Trong văn bản luật này có một nhóm các quy định về chính sách ƯĐĐT đối với KKT, bao gồm các nội dung ưu đãi về đất đai, về thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân) và các ưu đãi khác.
Hai, các luật chuyên ngành có quy định về ưu đãi trên lĩnh vực mà luật điều chỉnh cần có quy định loại trừ theo hướng viện dẫn áp dụng Luật KKT đặc biệt như: “ƯĐĐT đối với dự án đầu tư tại các KKT thực hiện theo quy định của Luật KKT đặc biệt”. Việc quy định theo hướng này hạn chế tình trạng khi luật chuyên ngành có liên quan thay đổi, phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung với những bất cập như đã phân tích trong thời gian vừa qua. Điều này là nguyên nhân dẫn đến mất đi tính ổn định của chính sách ƯĐĐT, gây tâm lý e ngại cho nhà đầu tư và ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư nói chung và môi trường đầu tư tại các KKT nói riêng.
Ba, cần rà soát sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế thu nhập cá nhân và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật này theo các quy định của Luật Đầu tư năm 2005 và Nghị định 29/2008/NĐ-CP để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật và đảm bảo cam kết ưu đãi vượt trội của các KKT.
- Sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và khoản 1, khoản 2, Điều 15 và khoản 5, Điều 19 Nghị định 124/2008/NĐ-CP cho phù hợp theo quy định tại khoản 2, Điều 32 Luật Đầu tư và khoản 3, Điều 16 Nghị định 29/2008/NĐ-CP về việc ƯĐĐT được áp dụng đối với dự án đầu tư mới và dự án đầu tư mở rộng (quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường).
- Sửa đổi, bổ sung khoản 3, Điều 15 Nghị định số 124/2008/NĐ-CP theo hướng mở rộng lĩnh vực, loại dự án được hưởng mức thuế suất ưu đãi 10% phù hợp với quy định tại khoản 4, Điều 16 Nghị định số 29/2008/NĐ-CP. Theo đó mở rộng các dự án đầu tư tại các KKT được hưởng ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp với mức thuế suất 10% trong suốt thời gian hoạt động của dự án.
- Nghị định số 124/2008/NĐ-CP nên có hướng dẫn về việc kh u trừ chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp trong KKT để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân nhằm giải quyết nhu cầu bức xúc này hiện nay.
- Điều 5, Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007; Điều 5 Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân; mục IV, phần A Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP nên quy định đối tượng thuộc diện miễn thuế theo quy định tại khoản 5, Điều 16 Nghị định 29/2008/NĐ-CP.
Bốn, về cơ chế giao đất: Nên sửa đổi các quy định của Luật Đất đai năm 2003 theo hướng thực hiện cơ chế giao đất đảm bảo các nhà đầu tư được quyền chọn lựa hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất theo cơ chế bình đẳng về nghĩa vụ tài chính. Nhà đầu tư nước ngoài vẫn được lựa chọn hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất của nhà nước nhưng thu hẹp chênh lệch giữa tiền sử dụng đất và tiền thuê đất trả hàng năm và sửa đổi chính sách ƯĐĐT về đất đai cho phù hợp để đảm bảo nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài được đối xử công bằng trong quan hệ tài chính đất đai với Nhà nước.
Năm, xem xét việc rút ngắn thời hạn thực hiện chính sách bán hàng miễn thuế đối với các KKT cửa khẩu theo khoản 4, Điều 21 Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg ngày 02/3/2009 của Thủ tướng Chính phủ (đã được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 93/2009/QĐ-TTg ngày 10/7/2009) và Quyết định số 24/2009/QĐ-TTg ngày 17/02/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế về kinh doanh hàng miễn thuế. Có thể xem xét kéo dài thời hạn thực hiện chính sách này đến năm 2018 nhằm tạo điều kiện cho các dự án ở đây thu hồi vốn và có lãi, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, thúc đẩy hoạt động thương mại tại các các KKT cửa khẩu.
Sáu, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hơn nữa hiệu quả việc giải quyết hồ sơ theo cơ chế “một cửa - tại chổ” và giảm tối đa các thủ tục hành chính về đầu tư, xây dựng tại KKT. Tiến hành phân cấp, ủy quyền mạnh hơn nữa cho Ban quản lý các KKT theo hướng là cơ quan quản lý hành chính - kinh tế như một cấp chính quyền đặc biệt để thực hiện việc quản lý toàn bộ các hoạt động trên địa bàn KKT.
Bảy, đối với nguồn phân bổ từ ngân sách Trung ương để đầu tư kết cấu hạ tầng cho các KKT nên có cơ chế tài chính về việc ưu tiên phân bổ lại nguồn thu ngân sách phát sinh trên địa bàn KKT hàng năm để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nhằm tạo thế chủ động đẩy nhanh tiến độ đầu tư phát triển, cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng cho từng KKT theo hướng hiện đại.
Nội dung ƯĐĐT theo quy định pháp luật
1. Ưu đãi về đất đai
- Toàn bộ diện tích đất theo quy hoạch của KKT được UBND cấp tỉnh nơi có KKT giao đất một lần cho Ban quản lý KKT. Nhà đầu tư có nhu cầu sử dụng đất tại KKT được Ban quản lý KKT giao lại đất hoặc cho thuê đất. Đối với nhà đầu tư (trừ đối tượng được quy định tại điểm d khoản 4 Điều 3 Luật Đầu tư) có khả năng về tài chính và kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư được thuê lại một phần hoặc toàn bộ diện tích đất chưa cho thuê tại KKT để đầu tư và cho thuê lại đất.
- Thời hạn sử dụng đất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh trong KKT của các nhà đầu tư tối đa là 70 năm. Sau thời hạn này, nhà đầu tư được tiếp tục sử dụng đất nếu chấp hành đúng pháp luật đất đai và có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất.
- Nhà đầu tư được miễn, giảm tiền sử dụng đất, giá thuê đất.
Riêng đối với nhà đầu tư có dự án đầu tư tại 9 KKT cửa khẩu (quốc tế Lào Cai, quốc tế Cầu Treo, thương mại đặc biệt Lao Bảo, An Giang, Mộc Bài, quốc tế Bờ Y, Đồng Đăng - Lạng Sơn, Móng Cái và Đồng Tháp) khi thuê đất, thuê mặt nước, ngoài việc được hưởng các ưu đãi trên còn được áp dụng mức giá thuê đất, thuê mặt nước bằng 30% giá thuê đất, thuê mặt nước áp dụng tại huyện có mức giá thuê đất, thuê mặt nước thấp nhất trong địa bàn tỉnh theo quy định của ủy ban nhân dân tỉnh nơi có KKT cửa khẩu tính từ năm nhà đầu tư hết thời gian được hưởng ưu đãi trở đi.
2. Các ưu đãi về thuế
Các quy định của Luật Đầu tư năm 2005, Nghị định 29/2008/NĐ-CP và các luật về thuế thì các ƯĐĐT tập trung vào những ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu, nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt.
* Thuế thu nhập doanh nghiệp
- Về áp dụng mức thuế su t ưu đãi:
+ Mức thuế suất 10% trong thời hạn 15 năm áp dụng đối với doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại KKT;
+ Mức thuế suất 10% trong thời hạn không quá 30 năm áp dụng đối với doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực: Công nghệ cao; nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; đầu tư phát triển nhà máy nước, nhà máy điện, hệ thống cấp thoát nước; cầu, đường bộ, đường sắt; cảng hàng không, cảng biển, cảng sông; sân bay, nhà ga và công trình cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định; sản xuất sản phẩm phần mềm có quy mô lớn, công nghệ cao hoặc mới cần đặc biệt thu hút đầu tư.
* Thủ tướng Chính phủ quyết định việc kéo dài thêm thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi 10% quy định tại khoản này theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
+ Mức thuế suất 10% trong suốt thời gian hoạt động của dự án: Theo quy định tại Điều 15, Nghị định 124/2008/NĐ-CP thì mức thuế suất này áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xã hội hóa: giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường.
Riêng đối với KKT - Thương mại đặc biệt Lao Bảo: Mức thuế suất 10% được áp dụng suốt thời gian chịu thuế thu nhập doanh nghiệp (suốt đời dự án).
* Danh mục các hoạt động trong lĩnh vực xã hội hoá do Thủ tướng Chính phủ quy định.
* Thời gian áp dụng các mức thuế suất ưu đãi nêu trên được tính liên tục từ năm đầu tiên doanh nghiệp có doanh thu từ hoạt động được hưởng ưu đãi thuế.
- Về miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp:
+ Miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối với doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại KKT.
+ Thời gian miễn thuế, giảm thuế được tính liên tục từ năm đầu tiên doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế từ dự án đầu tư; trường hợp doanh nghiệp không có thu nhập chịu thuế trong ba năm đầu, kể từ năm đầu tiên có doanh thu từ dự án đầu tư thì thời gian miễn thuế, giảm thuế được tính từ năm thứ tư. Trường hợp trong năm tính thuế đầu tiên mà doanh nghiệp có thời gian hoạt động sản xuất, kinh doanh được miễn thuế, giảm thuế dưới 12 (mười hai) tháng, doanh nghiệp được hưởng miễn thuế, giảm thuế ngay năm đó hoặc đăng ký với cơ quan thuế thời gian bắt đầu được miễn thuế, giảm thuế từ năm tính thuế tiếp theo.
- Về khấu trừ chi phí hợp lý để tính thuế thu nhập doanh nghiệp:
+ Theo quy định tại khoản 6, Điều 16 Nghị định số 29/2009/NĐ-CP: Chi phí đầu tư xây dựng, vận hành hoặc thuê nhà chung cư và các công trình kết cấu hạ tầng xã hội phục vụ cho công nhân làm việc tại KKT là chi phí hợp lý được khấu trừ để tính thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp có dự án đầu tư trong KKT.
- Về chuyển lỗ:
Theo quy định tại Điều 34 Luật Đầu tư năm 2005, khoản 1, Điều 7, Điều 16 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và Điều 7 Nghị định số 124/2008/NĐ-CP: Nhà đầu tư (doanh nghiệp) sau khi quyết toán thuế mà bị lỗ (lỗ phát sinh trong kỳ tính thuế là số chênh lệch âm về thu nhập chịu thuế được xác định theo quy định) thì được chuyển lỗ sang năm sau. Số lỗ này được trừ vào thu nhập chịu thuế. Thời gian được chuyển lỗ tính liên tục không quá 5 năm kể từ năm tiếp sau năm phát sinh lỗ. Đối với số lỗ từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản phải được hạch toán riêng và chỉ được bù trừ với thu nhập chịu thuế của hoạt động này.
* Thuế thu nhập cá nhân:
Theo quy định tại khoản 5, Điều 16 Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, đối với người có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập (bao gồm người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại KKT) được giảm 50% thuế thu nhập cá nhân.
Ngoài ra, nhà đầu tư, doanh nghiệp hoạt động trong KKT còn được hưởng các ưu đãi về các loại thuế khác theo quy định của Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu, Luật Thuế Giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt.
* Những ưu đãi khác
- Về thủ tục hành chính: thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, tại chổ” được áp dụng đối với các KKT. Sau khi có Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, mô hình, cơ chế và chức năng quản lý nhà nước đối với KKT được chuyển từ cơ chế “ủy quyền” sang cơ chế “phân cấp và giao nhiệm vụ trực tiếp” cho Ban quản lý KKT một cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Theo đó, Ban Quản lý KKT thực hiện chức năng quản lý nhà nước trực tiếp đối với KKT; quản lý và tổ chức thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ hành chính công và dịch vụ hỗ trợ khác có liên quan đến hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh cho nhà đầu tư trong KKT.
- Về hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng: Các dự án kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội quan trọng của các KKT được ngân sách Trung ương hỗ trợ đầu tư. Trước đây các KKT được Trung ương cho phép để lại nguồn thu phát sinh trên địa bàn KKT để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Ngày 10/9/2003, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 185/2003/QĐ-TTg về việc bãi bỏ các quy định của Thủ tướng Chính phủ về việc cấp lại, đầu tư trở lại từ các khoản thu của ngân sách nhà nước. Việc đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng tại các KKK đều phải chuyển sang cấp phát ngân sách theo danh mục dự án đầu tư được phê duyệt và tiến độ thực hiện dự án. Theo Quyết định số 126/2009/QĐ-TTg ngày 26/10/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách trung ương đối với đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KKT ven biển, các KKT ven biển được ngân sách trung ương hỗ trợ vốn đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội thiết yếu nhằm đảm bảo cho sự hoạt động và phát triển của các KKT ven biển.
- Về chính sách tiền tệ: Theo khoản 1, Điều 19 Nghị định 29/2008/NĐ-CP, việc mua bán, thanh toán, chuyển nhượng và các quan hệ giao dịch khác giữa các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh tại KKT cửa khẩu có thể thực hiện bằng Đồng Việt Nam, Đồng Nhân dân Tệ Trung Quốc, Kíp Lào, Riên Campuchia và các ngoại tệ tự do chuyển đổi theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Chính sách đối với các cửa hàng miễn thuế trong KKT: Một số KKT cửa khẩu như Lao Bảo, Mộc Bài và Khu thương mại tự do thuộc KKT mở Chu Lai được kinh doanh cửa hàng miễn thuế cho khách xuất nhập cảnh và kể cả khách du lịch nội địa.
TRẦN HỮU QUANG (theo khucongnghiep.com.vn) |